Thứ năm, 25-12-25 09:29:20
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Điệu nói thơ Bạc Liêu: “Báu vật” bị bỏ quên?

Báo Cà Mau

Thú thật, người viết bài này lưu tâm đến điệu nói thơ Bạc Liêu, khởi đầu không phải vì… am hiểu, mà qua nguyện vọng cháy bỏng của một nhân vật từng gắn bó với thể loại âm nhạc dân gian độc đáo này gần như cả cuộc đời, đó là cô Phạm Thu Ba. Một đồng nghiệp của tôi khi viết về cô Thu Ba đã “phong” cho cô cái danh xưng rất hay: một trong những “báu vật sống của văn hóa đồng bằng”. Nhưng, nhân vật này luôn canh cánh một điều: khi nói thơ Bạc Liêu còn bị bỏ quên thì cô cũng chẳng xứng với danh xưng đó. Tôi đã đi tìm giá trị của “báu vật” từ nguyện vọng thiết tha ấy: làm sao để nói thơ Bạc Liêu không bị mai một, được phát huy giá trị và trở thành di sản văn hóa quốc gia…

Một tâm nguyện cháy bỏng

Cô Phạm Thu Ba đã hơn 80 tuổi, là cán bộ hưu trí, cũng là cây đờn, giọng nói thơ “đinh” của câu lạc bộ văn nghệ người cao tuổi thuộc Trung tâm Văn hóa tỉnh. Ở cái tuổi nhớ quên lẫn lộn, nhưng tôi không thấy sự mơ hồ nào trong trí nhớ của cô Ba khi kể về những năm tháng cũ, nhất là khi đề cập đến điệu nói thơ Bạc Liêu. Cuộc đời của cô và giai điệu nói thơ Bạc Liêu, từ những năm tháng chiến đấu cho đến bây giờ, cứ như một tình yêu chung thủy! Nên cái tâm nguyện cháy bỏng của cô trước lúc cô không - còn - được - nói - thơ Bạc Liêu nữa là âm nhạc dân gian này phải được gìn giữ như một loại hình di sản văn hóa của Bạc Liêu và một bước xa hơn là được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia!

…Cuối những năm kháng chiến chống Pháp, cô Út Bến Hải (tên gọi khác của cô Thu Ba) cùng với điệu nói thơ Bạc Liêu là bạn đồng hành đi làm cách mạng… “Con ơi! Dứt mọi tình trường/ Con ra mặt trận giữ gìn biên cương/ Thà là chết ở chiến trường/ Còn hơn chết ở trên giường thê nhi…”, “Có gì quý báu cho bằng/ Cờ hồng thắng trận bủa giăng khắp trời/ Đồng bào ta được thảnh thơi/ Oai danh chiến sĩ chói ngời năm châu”… Như những khúc tâm tình gửi gắm lòng tin yêu và cả quyết tâm chiến đấu cho non sông đất nước, nhẹ tình riêng để nặng tình chung; nói thơ có một sức mạnh cảm hóa đặc biệt trong công tác binh vận. Những giai điệu cất lên từ tâm can ấy, theo lời kể của cô Út Bến Hải, đã có sức thuyết phục cả những người lầm đường lạc lối. Nói thơ Bạc Liêu theo chân cô ra chiến trường, rồi làm bạn cùng cô trong những năm tháng chịu cảnh tù đày ở nhà tù Phú Lợi - “địa ngục trần gian” của Mỹ - ngụy một thời. Tiếng lòng ngân nga xoa dịu nỗi đau thể xác để cô và đồng đội bước qua lằn ranh mong manh của sự sống và cái chết; có khi đó còn là giai điệu ngọt ngào ru giấc ngàn thu cho những bạn tù của cô, khi họ không chịu nổi đòn roi dã man của kẻ thù…

Vì sao nói thơ Bạc Liêu có sức mạnh tinh thần đặc biệt như thế? Chúng tôi đã tìm hiểu giá trị của nói thơ Bạc Liêu từ tâm nguyện của người gắn trọn cuộc đời với giai điệu mượt mà này…

Cô Phạm Thu Ba, một trong những người am hiểu sâu sắc về điệu nói thơ Bạc Liêu. Ảnh: C.T

“Báu vật” một thời

Điệu nói thơ Bạc Liêu được nghệ nhân Thái Đắc Hàng chế tác vào năm 1946 tại ấp Bàu Tròn xã Tân Hưng Đông, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Bạc Liêu (cũ). Đó là giai đoạn vọng cổ bị cấm vì cho là ủy mị, không phù hợp với tinh thần chiến đấu của cách mạng... Ông Thái Đắc Hàng - một người mê vọng cổ có lần đã bị kỷ luật vì tội “lén ca vọng cổ”, thế mà vẫn không từ bỏ “mối tình” này. Khi lỡ yêu rồi thì ít người chấp nhận từ bỏ! Một buổi trưa tại khu vườn nằm trong trụ sở đóng cứ của Đội thông tin lưu động huyện, ông Thái Đắc Hàng ôm cây đờn măng-đô-lin nắn nót biên soạn giai điệu mới lấy âm hưởng của vọng cổ. Giai điệu mới lại bắt gặp được sự đồng điệu của người bạn là Nguyễn Phi Bằng, chỉ sau 2 giờ, ông Phi Bằng đã hoàn thành nội dung bài thơ “Lấy chồng chiến sĩ” làm lời ca đầu tiên cho giai điệu nói thơ của ông Thái Đắc Hàng. Đó chính là bài nói thơ “Mười thương”, sau đó nhanh chóng được lưu truyền: “Má ơi, con chưa muốn chồng/ Con chờ chiến sĩ thành công trở về…”.

Điệu nói thơ trở thành phong trào văn nghệ lan khắp các tỉnh, thành phố Nam bộ. Đêm đêm trên sông rạch hay trong những gia đình thuộc vùng kháng chiến lại nghe văng vẳng giai điệu nói thơ. Trong các giờ giải lao hội họp đều có tiết mục nói thơ, không chỉ phổ biến tại Bạc Liêu mà còn lan tỏa cả miền Đông, theo chân chiến sĩ đi khắp các chiến trường Nam bộ. Có thể kể ra một số bài nổi tiếng lúc bấy giờ như: “Tấm áo chiến sĩ”, “Nam kỳ khởi nghĩa”, “Khuyên chồng ra mặt trận”, “Quê hương Bạc Liêu”, “Binh vận”…

Nói thơ Bạc Liêu sau đó còn được xuất hiện trên sân khấu. Năm 1974,  nhạc sĩ Lê Giang và Lư Nhất Vũ trong một ca kịch đã mượn điệu nói thơ Bạc Liêu ca ngợi về cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai: “Chim khôn (thời) ăn trái nhãn lồng/ Người khôn (thời) ắt phải tầm thường thẳng ngay/ Có thầy giáo Hiển - Hòn Khoai ớ ờ/ Đứng lên (mà) thề giết lũ giặc Tây trả thù…”. Nhạc sĩ Phan Nhân đã mượn làn điệu nói thơ phát triển thành ca khúc “Trên quê hương Minh Hải”. Ca khúc này cũng mở ra phong trào đưa làn điệu nói thơ Bạc Liêu vào các tác phẩm âm nhạc hiện đại, điển hình như các bài “Bông điên điển”, “Trở lại Bạc Liêu”...

Năm 1988, nhạc sĩ Lư Nhất Vũ và Lê Giang đã đưa điệu nói thơ Bạc Liêu lên phim “Phạm Công - Cúc Hoa”. Năm 1990, nhà thơ Lê Giang tiếp tục mượn giai điệu này để đặt lời mới cho băng audio với tựa đề “Mười thương làng xóm quê mình”. Năm 1995, trong hội diễn Âm nhạc dân tộc toàn quốc, với giai điệu nói thơ, đoàn tỉnh Long An đã đoạt tiết mục huy chương vàng. Tháng 8/2005, trong cuộc liên hoan dân ca toàn quốc do Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ VH-TT&DL) tổ chức, tiết mục nói thơ Bạc Liêu do tỉnh Cà Mau biểu diễn đoạt giải Nhì toàn quốc. Và gần đây nhất, trong liên hoan Hát ru,  hát dân ca và cổ truyền khu vực phía Nam năm 2014, Bạc Liêu đã đoạt giải đặc biệt nhờ sự đóng góp tinh túy của bài nói thơ Bạc Liêu…

Mặt khác, điệu nói thơ Bạc Liêu xuất hiện ngày càng nhiều trên truyền hình và điện ảnh, đó là phim “Đất phương Nam”, “Đồng Nọc Nạng”...

Để phát huy giá trị

Điệu nói thơ Bạc Liêu một thời là “báu vật”, bây giờ dường như đã bị “bỏ quên”, nó tồn tại trong niềm đam mê và nỗi luyến tiếc của những người từng thủy chung với nó, như lời của cô Thu Ba: mai này nói thơ Bạc Liêu sẽ về đâu khi những nghệ nhân khuất bóng?

Môi trường ca diễn hầu như không còn phù hợp nữa, những bài lục bát dùng cho nói thơ thường dài mà khán giả của xã hội hiện đại không có thời gian để thưởng thức là một lẽ, một lẽ khác là ngành chức năng chưa có nhiều động thái thiết thực hơn để bảo tồn và phát huy giá trị của điệu nói thơ. Một đề tài khoa học nghiên cứu về nói thơ Bạc Liêu (cùng với hai loại hình ca vọng cổ và hò chèo ghe) đã được thạc sĩ Lâm Thành Đắc, hiện là Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội khoa học tỉnh thực hiện; một DVD về nói thơ Bạc Liêu do Viện Âm nhạc Việt Nam và Sở VH-TT&DL Bạc Liêu thực hiện... nhưng bấy nhiêu chưa đủ để nói thơ Bạc Liêu được như “ngọc mài để sáng”!

Muốn bảo tồn, theo chúng tôi, cần nhanh chóng tìm gặp những “báu vật sống” như cô Thu Ba để sưu tầm, ghi chép, ghi âm, ghi hình nhằm “truyền nghề” cho thế hệ trẻ. Để phát huy giá trị, ngành Văn hóa nên nhanh chóng tham mưu với UBND tỉnh xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể về bảo tồn phát huy giá trị điệu nói thơ, mạnh dạn đầu tư cho các hoạt động sáng tác lời mới, tổ chức liên hoan, hội diễn vận dụng nói thơ Bạc Liêu vào thực tế cuộc sống để khuấy động phong trào, hoặc tính đến việc xây dựng tiết mục để phục vụ khách du lịch… Những lời nói thơ mộc mạc, đậm chất Nam bộ tin chắc sẽ ru lòng viễn khách đến với Bạc Liêu…

Trong dòng chảy của những loại hình văn hóa nghệ thuật hiện nay, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế, việc gìn giữ và khẳng định giá trị những dòng nhạc dân tộc là việc làm cần kíp! Gìn giữ và phát huy điệu nói thơ Bạc Liêu, đừng để nói thơ như một “báu vật” bị bỏ quên không chỉ là trách nhiệm giữ gìn di sản văn hóa của ông cha đã lao tâm khổ trí tạo nên, mà còn thể hiện tình yêu, trách nhiệm của người Bạc Liêu đối với quê hương mình.

Cẩm Thúy

Chùa Rạch Cui - biểu tượng của đoàn kết và sum họp

Giữa không gian sông nước hiền hoà của xã Khánh Bình, chùa Rạch Cui hiện lên như một dấu son đặc biệt trong đời sống văn hoá tâm linh của đồng bào Khmer Cà Mau. Không chỉ là ngôi chùa Nam tông mang giá trị kiến trúc truyền thống, Rạch Cui còn là nơi ghi dấu lịch sử cách mạng hào hùng, in đậm tinh thần đoàn kết Kinh - Khmer - Hoa trên vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc.

79 thí sinh tham gia Liên hoan Đờn ca tài tử học đường

Tối 19/12, tại Trung tâm Văn hoá tỉnh, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức khai mạc Liên hoan Đờn ca tài tử học đường tỉnh Cà Mau năm 2025.

Tập huấn xây dựng mô hình trải nghiệm Nhạc trống lớn của người Khmer

Sáng 19/12, tại Nhà sinh hoạt văn hoá ấp Cây Khô, Xã Hồ Thị Kỷ, Phân viện Văn hoá, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch miền Nam phối hợp Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Cà Mau tổ chức tập huấn “Xây dựng mô hình trải nghiệm Nghệ thuật Nhạc trống lớn của người Khmer ở tỉnh Cà Mau”. Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Cà Mau tổ chức tập huấn “Xây dựng mô hình trải nghiệm nghệ thuật Nhạc trống lớn của người Khmer ở tỉnh Cà Mau”. Dự buổi tập huấn có Tiến sĩ Bùi Thị Hoa, Phó Phân viện trưởng phụ trách Phân viện Văn hoá, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch miền Nam.

Trưng bày triển lãm “Cà Mau - Nơi khắc ghi dấu ấn lịch sử và bản sắc văn hóa phương Nam”

Sáng 15/12, Bảo tàng tỉnh Cà Mau phối hợp với Đảng uỷ, UBND xã An Trạch và Trường THCS Võ Nguyên Giáp tổ chức khai mạc trưng bày triển lãm chuyên đề “Cà Mau - Nơi khắc ghi dấu ấn lịch sử và bản sắc văn hóa phương Nam”.

Một thời hoa lửa

U Minh Hạ mùa sa mưa. Trong cái nắng mới cố xiên mình qua những đám mây đen nặng oằn chực chờ trút xuống, thoang thoảng mùi bông tràm nở muộn.

Biểu tượng hoa cau trong văn hoá Khmer

Hoa cau, biểu tượng thiêng liêng trong hôn lễ của người Khmer, được xem là thước đo phẩm hạnh, phản ánh giá trị văn hoá độc đáo.

Trao thưởng các tác giả đạt Giải thưởng Văn học, Nghệ thuật Phan Ngọc Hiển lần thứ V

Chiều 12/12, UBND tỉnh Cà Mau tổ chức Lễ trao Giải thưởng Văn học, Nghệ thuật Phan Ngọc Hiển lần thứ V. Dự lễ có đồng chí Phạm Văn Thiều, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh và đồng chí Ngô Vũ Thăng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh.

Điểm đến giàu tiềm năng du lịch văn hoá - tín ngưỡng

Toạ lạc tại xã Hưng Hội, chùa Soryaram (chùa Giữa) đã tồn tại gần một thế kỷ và vẫn gìn giữ nguyên vẹn vẻ đẹp kiến trúc cổ truyền, lộng lẫy. Không chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo của đồng bào Khmer, chùa còn là không gian văn hoá đặc sắc, hội tụ nhiều giá trị truyền thống, tạo tiềm năng lớn để phát triển du lịch văn hoá - tín ngưỡng.

Tục thờ Môn thần của người Hoa

Trong tín ngưỡng dân gian của cộng đồng người Hoa tại Cà Mau, tục thờ Môn thần là nét văn hoá đặc sắc, gắn liền với quan niệm về sự an cư, bảo hộ và trấn áp tà khí.

Sắc màu văn hoá Khmer qua Lễ Cầu an

Hằng năm, sau Tết Chôl Chnăm Thmây, đồng bào Khmer tại các phum - sóc trên địa bàn tỉnh Cà Mau lại hân hoan tổ chức Lễ Cầu an (Panh Kom San Srok), một trong những nghi lễ truyền thống quan trọng nhất.