Với tuổi thơ khá sóng gió và mang thân phận khá đặc biệt, Nguyễn Duy Quyền đã trải hết những điều đó vào trang viết của mình. Từ những tủi hờn, lạc lõng khi bị cha bỏ rơi, những lần được ngoại dỗ dành, những món ăn do má nấu, những trải nghiệm một thân, một mình mưu sinh khi tuổi đời còn khá trẻ... Vì thế, tập tản văn "Quên được cứ quên" có một chiều dày khá ấn tượng.
Với tuổi thơ khá sóng gió và mang thân phận khá đặc biệt, Nguyễn Duy Quyền đã trải hết những điều đó vào trang viết của mình. Từ những tủi hờn, lạc lõng khi bị cha bỏ rơi, những lần được ngoại dỗ dành, những món ăn do má nấu, những trải nghiệm một thân, một mình mưu sinh khi tuổi đời còn khá trẻ... Vì thế, tập tản văn "Quên được cứ quên" có một chiều dày khá ấn tượng.
Ðó không phải chỉ là độ dày của tập sách mà còn là độ dày của những cung bậc cảm xúc, có khi thắt đau, có lúc nghẹn ngào, có lúc chìm trong nỗi nhớ và niềm thương vô ngần... Và cứ thế, dù có muốn quên đi nhưng nào có được...
Thì vẫn biết, chỉ cần không nhớ đến nữa sẽ... quên, nhưng quên làm sao được khi mỗi lần đi qua một góc phố, bắt gặp một dáng quen, lòng bỗng bần thần, xao động; ăn một món quen, ký ức bỗng tràn về với biết bao những lần sum vầy bên gia đình, người thân, nhất là đối với những người vì nhiều lý do phải sống xa quê, rời xa những gì vốn đã rất gắn bó, thân thuộc.
"Tới giờ lớn đi xa quê, lâu lâu bắt gặp những món quê... lòng còn bồi hồi mùi khói bếp... Kỷ niệm không là khói, sao mắt lại cay xè?? Mớ ký ức đó, là mảng vàng mà có dư dả tiền bạc thời này mua cũng đâu có được. Bởi lâu lâu bắt gặp mớ bánh trái quê nhà, là bần thần ngợp một trời trí nhớ, bánh xèo, bánh khọt giờ tự làm được, nước dừa có sẵn trong lon vậy mà vẫn nhớ cái bàn cào bằng sắt cũ ơi là cũ, cái cán gỗ lên nước bóng hới, đạp bàn chân nhỏ ngồi bào mà nghe gió liêu xiêu” (Bánh trái xứ mình).
Ðâu chỉ có bánh trái, món ăn, mà còn có những hàng lau sậy ngút ngàn, những buổi trời mưa dầm, những lúc "ngồi coi xe bánh mì vắng khách cho má nấu cơm bán cơm phần buổi trưa, mùi bánh mì thơm, cà phê giảo của má, mùi bơ, patê còn nhớ hoài... Mấy bữa đó nhà toàn ăn cà pháo với canh rau đay, dưa mắm trộn. Con ăn khen ngon mà má day đầu chỗ khác, tiếng thở dài cố nén, vuốt thẳng mấy đồng bạc lẻ. Lâu lâu nhấc nồi cơm, lon sữa bò đụng đáy khạp gạo tự nhiên thấy mình như có lỗi” (Mưa và xe bánh mì của má).
Tháng ngày vất vả ấy rồi cũng qua, nhưng những vết hằn của những trận đòn roi, những lời chì chiết của cha ruột mình do giận dữ khi đứa con không sống đúng với giới tính như ông mong đợi thì không bao giờ nguôi ngoai trong lòng dù đôi khi cố quên đi mà không được. "Tận cùng nỗi nhớ chính là... lãng quên, những thứ cố quên thì lại càng nhớ, mà ngặt đã nhớ thì càng muốn quên, trong cái sự quên mà thực ra là đang nhớ nhiều dữ lắm! Cho nên con người ta cứ lẩn quẩn trong cái vòng tròn, thoát có được đâu! Bị vì đứng trong đó sao mà nhận ra đâu là điểm khởi đầu và đâu là điểm kết thúc” (Quên được... cứ quên).
Cũng có thể là có điểm khởi đầu và điểm kết thúc của nỗi nhớ và sự lãng quên, nhưng chính tác giả cũng đã viết: "Cuộc sống đẩy con người ta lớn lên, xa quê, xa xứ... Nhưng mà ký ức thì không bao giờ xa cho nổi. Cho nên nghe tuồng cải lương, bắt gặp cái vạt gỗ, cái cà mèn, bộ lư trên bàn thờ, bộ bàn ghế uống trà bằng gỗ mun lên nước bóng hới, hay thảng nghe mùi khói đốt đồng, mùi khói chụm mớ vỏ dừa khô che phơi khô trước nhà, tiếng cơm sôi, ơ kho quẹt nghi ngút thơm... chỉ cần hao hao giống quê nhà là ngợp một trời ký ức. Lúc ở đó thì có thấy thương đâu, cực thấy tía: nào kéo cưa xẻ gỗ, bửa củi, gánh nước, nấu cơm, giặt đồ, be bờ đập tát cá, tới chèo ghe đi dỡ lọp. Tới chừng xa quê, xa xứ thì cái gì cũng đẹp, cũng nhớ. Tuồng cải lương "Lá sầu riêng" vang trong đêm... Cô đào Lịch Sử giọng lạ hoắc... mà cả một vùng ký ức lùa về” (Cải lương thời @).
Cả những ký ức buồn hiu hắt và những ngày bữa cháo, bữa rau, nương tựa vào nhau mà sống bởi người đàn ông của gia đình bỏ đi biền biệt, cả những lần hiếm hoi người đàn ông ấy quay về cũng không phải là những ngày vui thực sự bởi kèm theo đó là những định kiến, những áp đặt lên vợ, lên con. Có lẽ chính vì thế mà "những người phụ nữ ăn cơm mình ên trong bếp. Buổi cuối ngày ánh sáng liêu xiêu. Những người mẹ, ngoại, chị hay bạn bè, bóng đổ dài sao mà đơn độc! Ðơn độc ngay trong gian bếp của chính mình. Nên má hay nói khi nào ăn cơm một mình được, là làm được đủ thứ trên đời” (Những người phụ nữ ăn cơm một mình).
Ðọc "Quên được cứ quên" của Nguyễn Duy Quyền, người đọc không những đồng cảm với những cảm xúc mà tác giả trẻ này trải qua, mà đôi khi còn thấy bùi ngùi khi biết rằng ngoài kia còn rất nhiều thân phận tương tự đang mang nỗi buồn giấu kín, khó lòng tỏ bày khi người gây ra những nỗi buồn ấy là sự vô tâm, là những định kiến, hờ hững, lạt lòng... của những người lẽ ra phải nhận được sự yêu thương, chăm chút, quý mến.
Ðó không hẳn là do họ khiếm khuyết về thể chất hay dễ bị tổn thương về tinh thần, mà chỉ vì cái lẽ giản đơn: người với người, nhất là đối với những người thân - là sự nối kết tình yêu chứ nào là sự chia cắt, bỏ mặc hoặc dày vò nhau?!
Bởi thế, có thể hiểu cho tâm trạng của tác giả khi dù cố dặn lòng phải quên nhưng vẫn "Nhớ lắm! Một thời đã từng có một nơi gọi là mái ấm! Ðể mỗi khi ra đi còn có chỗ để quay về thì những cuộc ra đi còn có một mục đích để phấn đấu, không tới nỗi lạc lõng giống như cảm giác lúc này, thấy mình nghèo xơ nghèo xác tới nỗi không có mục đích để thấy lòng ấm lại” (Ra đi).
Ra đi rồi, nhưng có quên được không? Câu trả lời vẫn còn để ngỏ...
Ngọc Lợi