(CMO) “Sống thời bao cấp” là tập ký của tác giả Ngô Minh, người đã “chứng kiến thời bao cấp với cái nhìn của riêng tôi, vừa buồn cười vừa cay đắng, vừa giận vừa thương, vừa muốn quên đi vừa không thể không nhớ”. Thế nên, tác giả đã miêu tả lại qua những trang viết chân thực từ chuyện ăn, ở, đi lại, cưới hỏi, nổi bật nhất vẫn là chuyện tem phiếu, sổ gạo… với những câu chuyện cười ra nước mắt.
Đó là những tháng ngày cơ cực, bộn bề với những nỗi lo từ gạo, nước, củi, vải… quay cuồng với cái ăn, cái mặc mà dường như càng quay thì càng rối. Có biết bao nhiêu tấn bi hài kịch hoặc không biết bao nhiêu mà kể những chuyện mà giờ nghe nhắc lại, người từng trải qua thì rùng mình, còn người chưa biết gì về thời bao cấp còn tưởng đó là chuyện bịa bởi không thể hình dung những chuyện đơn giản như mua một kí gạo, có được một mét vải hay lít dầu hôi… phải trải qua những bước “trần ai khoai củ” đến như thế. “Có khi xếp được sổ rồi, nhìn thấy một chồng cao ngất ngưỡng, cứ thấp thỏm lo mất sổ. Nếu chẳng mai bị mất sổ gạo, tháng đó phải chạy ngược chạy xuôi lo tạm cấp, trước khi được làm sổ mới… Với tất cả những gia đình hồi đó, sổ gạo còn quý hơn vàng. Từ đó mới có thành ngữ: “Mặt như mất sổ gạo”. Cái mặt thất thần, tái xám, ngây ra là “mặt mất sổ gạo”! “Mất sổ gạo” là cụm từ chỉ sự phụ thuộc vào tem phiếu thời bao cấp. Mất sổ gạo hay mất bất kỳ loại tem phiếu nào cũng đều là thảm hoạ”.
Hay như để uống được một cốc bia, ăn được một bát phở quốc doanh cũng phải trần thân chịu đựng cảnh “xếp hàng mua vé xong mới xếp hàng lấy phở. Tay cầm cái vé mỏng như số phận, hàng chục cánh tay con trai con gái thò vào cái ô cửa nhỏ xíu chờ hàng giờ, cho đến khi bàn tay búp măng đeo nhẫn vàng choé của cô mậu dịch viên lạnh lùng đưa bát phở ra, không thấy mặt mũi của cô xinh xẻo ra sao, cũng đã thấy hởi lòng hởi dạ”.
Và cả những câu chuyện về những người trí thức có, văn nghệ sĩ có, nông dân có… đã “vượt lên hoàn cảnh” thấy vừa thương, vừa tội cho một thời mà “cha ông của lớp trẻ hôm nay đã từng trải qua, đã từng chịu đựng, đã từng gồng mình lên để sống”. Tác giả cũng có cái nhìn cảm thông cho cái thời khốn khó ấy, bởi “Chế độ cung cấp bằng tem phiếu ấy mới đảm bảo công bằng xã hội, mới huy động được lực lượng thực phẩm để phục vụ bộ đội ở chiến trường. Người đông của ít, nếu không phân chia như thế, xã hội sẽ loạn lạc ngay”.
Và hình ảnh đại diện cho thời bao cấp, đó là cảnh rồng rắn xếp hàng hoặc các nghề “có một không hai”, chẳng hạn như nghề bơm mực bút bi, bơm ga bật lửa, nghề đạp xe ôm, nghề cuốn thuốc lá điếu… cả cảnh nuôi heo, nuôi gà trong chung cư để tăng thu nhập cũng đều được tác giả đưa vào tập kí với lối viết vừa chân thật vừa sinh động.
Ngay như các cô mậu dịch viên - vốn là người luôn bị mọi người “vừa sợ vừa ghét” nhất cũng được tác giả lý giải “giúp” vì sao họ hay có khuôn mặt “cau có” thường trực kia. “Mậu dịch viên chịu nhiều sức ép lắm.Đủ loại lãnh đạo cấp trên hết ngành ngang tới ngành dọc ép xuống ưu tiên bán cho họ, cho người thân của họ cái này cái nọ.Cùng với sức ép của gia đình, người thân của chính mậu dịch viên đòi mua ngay, mua trước. Trong khi họ phải đối diện với một đám đông chen lấn, la hét, chửi bới… Họ đâm stress, đổ cáu bẩn, nói năng thô lỗ, chửi chó mắng mèo”.
Nói như chính tác giả thì “Mỗi người có những kỷ niệm riêng về thời bao cấp của mình. Người cho đó là thời dễ sợ, thời của những lạc hậu và bảo thủ. Người cho đó là thời của những ấu trĩ hồn nhiên, đáng trách nhưng không đáng giận. Người lại cho đó là thời dễ thương, đói nghèo nhưng ấm áp”. Và dù cái thời bao cấp ấy đã qua từ rất lâu, nhưng không lạ khi thi thoảng vẫn có những bài báo, những buổi triển lãm nhắc về cái thời đó, bởi nhìn lại, nghe kể lại, đọc để hiểu “để lớp trẻ thấy ý chí của cha ông đã vượt qua cái cũ, cái lỗi thời, vượt qua cơ chế luật lệ hà khắc đã ngáng đường đi lên của mình như thế nào”.
Đoàn Ngọc