Men theo con nước lớn ròng, người dân xứ Cái Muối này đã quá quen thuộc với hình ảnh người đàn bà đầu trần đi thẫn thờ dưới trời nắng oi ả. Họ thì thầm với nhau, họ trao nhau ánh mắt đầy ái ngại, đầy tò mò, mặc cho tà áo sờn màu kia dần khuất sau đám đước um tùm.
Men theo con nước lớn ròng, người dân xứ Cái Muối này đã quá quen thuộc với hình ảnh người đàn bà đầu trần đi thẫn thờ dưới trời nắng oi ả. Họ thì thầm với nhau, họ trao nhau ánh mắt đầy ái ngại, đầy tò mò, mặc cho tà áo sờn màu kia dần khuất sau đám đước um tùm.
Người ta quen gọi bà là bà Năm Lặt. Bà cũng có chồng con như người ta. Từ khi "Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu xa", bà ngậm ngùi nuôi con. Bà con xóm giềng cứ bảo, sao bà ấy không tìm, không xé xác con nhỏ giựt chồng người ta một trận; hoặc đại loại: chồng gì bạc ác, ăn ở ngần ấy con mà bỏ cho đành, mai này lại mò về cho xem...
Minh hoạ: HOÀNG VŨ |
Người ta nói nhiều lắm, như một trận bão mồm. Người ta cứ nói, bà cứ nghe. Bà không đính chính gì, chỉ cười nhạt. Nói gì bây giờ? Ðánh ghen ư? Ðể được gì? Người ta có còn yêu thương mà quay về với mái nhà này không? Bà còn nhớ như in việc vợ ông có máu mặt trong làng đánh ghen bồ chồng bằng cây dầm khi hai người tằng tịu với nhau. Ðánh dữ dội cho hả hê cơn bực tức bấy lâu, phần vì muốn dằn mặt ông chồng, nhưng rồi mang tội hành hung người khác, xóm giềng cười chê cả họ. Cũng chả được tích sự gì. Có người rạch mặt người khác bằng lưỡi lam, mọi việc sau đó càng thêm rắc rối...
Bà chọn cách im lặng. Vâng, chỉ im lặng. Bà chỉ nghĩ rằng, hết duyên hết nợ thì ép uổng người ta làm gì.
Qua hơn 20 năm, ngần ấy thời gian cũng đủ làm thay đổi diện mạo con người ta, nhất là người có tâm sự. Gương mặt bà Năm càng hốc hác hơn. Bà càng ít nói hơn. Bà thường đi về cô độc. Bà chọn cách giải thoát đơn giản cho đời mình là đi tìm người tâm sự. Cuối cùng bà tìm được người phụ nữ có hoàn cảnh như bà. Hai người phụ nữ khổ đau gặp lại, họ nói chuyện gì có trời mới biết. Nhưng cứ mỗi lần trò chuyện xong, hai bà cứ cười rộn lên. Nụ cười của sự đồng cảm!
Con nước ròng rồi con nước lớn. Những khi nước lớn mang theo ăm ắp phù sa. Những con sóng tham lam cứ thi nhau chạy nhanh vào bờ và ôm nhẹ nhàng lấy những chang đước khẳng khiu. Rồi khi con nước dần lui, bỏ lại lòng kênh trơ bãi, màu phù sa lắng lại, một sự cô độc đáng sợ. Bà cũng như bãi nọ, cũng bị dòng nước cuốn phăng và thu hẹp dần niềm vui lẽ sống. Trong khi ai kia đang hạnh phúc, say sưa niềm vui mới, bà lại chèo chống, sớm hôm còng lưng nuôi hai con. Nước lớn bà đi giăng lưới, đặt lú dưới sông, mong kiếm thu nhập lo cho hai con. Người ta đi biển có đôi, bà chỉ có một thân một mình! Khi nước ròng, người dân xứ này vẫn quen thuộc với bóng dáng lom khom mò sò trên bãi của bà, công việc này cũng phụ thêm phần cơm áo, thang thuốc cho con.
Những đêm trăng tỏ, đêm nào bà cũng khóc. Bà khóc trong trạng thái ức chế, không tiếng động, không tiếng ré lên, chỉ đơn thuần là dòng nước mắt rơi dài và lăn méo xệch trên gương mặt đang cố chịu đựng niềm đau. Bà đau lắm. Bà hận lắm. Bao giờ thôi hết khổ. Bờ vai bà run lên bần bật. Thời ấy làm gì có điện thoại hay thư từ. Chỉ biết rằng, đã đi là biền biệt. Những lúc nỗi nhớ đan xen niềm đau như thế, bà chỉ cầm gáo nước dội vào đầu, vào thân thể gầy guộc… thế thì không ai biết bà đang khóc dưới trăng. Có người tình cờ thấy, bảo bà bị điên. Người ta nhìn bà với cặp mắt sờ sợ, ngại ngùng.
Thoảng nghe câu hát chị nhà bên ru con:
Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ
Người ra đi như cơn gió, chỉ người ở lại với nghĩa vụ phải lo, phải nghĩ, khổ thân bà biết mấy. Cực thân nhất là khi nhà hàng xóm qua mắng vốn:
- Bà dạy con kiểu gì mà tối ngày nó qua nhà tôi nó phá phách. Thân không cha thì sống đàng hoàng cho làng xóm thương!
Chỉ nghe tiếng trả lời gãy gọn:
- Xin lỗi, xin lỗi…
Nhìn con người ta ăn mặc bảnh bao, bà ham lắm, bà nhìn lại con mình, chúng lem luốc quá, nhưng có thương cách mấy cũng không ngốc đầu lên được vì nhà bà cùng đinh nhất xóm. May mà khi lớn con bà biết chí thú làm ăn, từ đó bà nhẹ lòng. Rồi con bà cũng cưới được vợ. Vậy là bà có thể an nhàn chuỗi ngày còn lại…
***
- Bà Năm đâu rồi, bà Năm ơi!
Không cần nhìn mặt, nghe tiếng cũng biết bà Béo cuối xóm. Sáng chưa mở mắt mà nghe tiếng điếc cả tai, bà chạy như ma đuổi vào ngay nhà bà Năm.
Không biết nói gì mà thấy bà quơ tay, múa chân như xiếc, rồi thấy bà Năm ngồi phịch xuống bộ ván.
- Trời ơi là trời!
Số là, con dâu bà bỏ nhà trốn theo người khác, để lại cho bà hai đứa cháu thơ dại. Ðời bà chưa hết khổ. Nhìn hai cháu ngây thơ, ngủ say, miệng đang cười tủm tỉm, bà khóc như ai đó đang tát mạnh vào mặt mình. Cháu bà không có tội. Tại chữ duyên nợ hay tại gia cảnh cơ hàn của bà đã khiến gia đình bé nhỏ của con bà tan nát? Bà biết nói sao với con trai bà, thấy thương con giờ này đang còng lưng làm thuê cho người ta, ăn quán ngủ đình nào có quản, mong lo cho mái ấm, vậy mà...
Thế là từ ngày đó, người xóm trên hay xóm dưới đều thấy ba dáng người, người bà đi trước, hai đứa cháu đi theo sau, khắp xóm, ai thấy cũng thương. Ánh nắng chiều cứ soi rõ dáng lầm lũi suốt con đường quê phèn mặn. Ngặt nỗi, nhờ có chuyện như thế, bà lại bớt buồn về mình, dường như bà dồn tâm trí lo cho hai đứa cháu thơ dại. Hàng xóm cho gì, tặng gì bà cũng dành cho chúng. Bà thương chúng như thương chính cuộc đời của bà, của con bà.
Biết bao lần cháu bà nhìn sông, đón đò, đợi chuyến xe ngang nhà, hy vọng mẹ quay về thăm chị em nó. Cổ như muốn dài ra mà niềm tin cứ mong manh dần…
Rồi một ngày, người ta thấy đứa con trai bà Năm đưa về một ông lão bệnh tật, gầy yếu. Không ai nhận ra ông ấy. Ông Năm ngày nào giờ như một bó củi khô mùa hạn. Ông chỉ phều phào, nói chẳng nên lời, tay chỉ chỉ điều gì đó. Dù biết lá rụng về cội, nhưng người đời vẫn trách, vẫn đau. Sinh thời khoẻ mạnh rũ bỏ người thân, quên đi ân nghĩa vợ chồng, khi mỏi gối chồn chân lại mang thân xác rã rời về tìm nơi an nghỉ. Thiệt thòi và đau đớn nhường nào cho người đàn bà kia.
Không hơn nửa tháng, ông Năm mất. Lại một lần nữa ông bỏ rơi bà. Lần này ra đi và mãi mãi ông không quay lại. Bà không nói là tha thứ cho ông, nhưng cũng không kể lể là thương ông. Nhưng bà vẫn khóc. Vẫn nhìn dòng kênh đang rút dần, hẹp dần khi con nước ròng. Bãi bồi trơ ra, phơi lì ở mặt sông, như đời bà mãi chịu cô đơn. Bà không trách số phận, không trách ai, chỉ mong dòng nước lớn mau trở lại để mặt sông đong đầy sức sống, đơn giản thôi nhưng sao khó quá.
Ngày tháng cuối đời, bà Năm chỉ mong nhìn nước lớn. Nước về mang cho cháu bà niềm hy vọng. Bà tin rằng, ở đời này tình mẫu tử vẫn thiêng liêng, như dòng sông kia, dù nước có khi ròng nhưng rồi sẽ lớn./.
Truyện ngắn của Xuân Dị