Là một người Tày, tác giả Y Phương có đủ mọi lợi thế để viết về tất cả mọi thứ xoay quanh văn hoá, cuộc sống, tình cảm... của dân tộc mình. Với "Fừn nèn - Củi tết", Y Phương như đã "rút hết gan ruột" qua từng con chữ, đắn đo từng dấu chấm, dấu phẩy, thương quý từng nếp xưa, nét cũ của những ngày tuy còn khốn khó nhưng tình người sống với nhau vuông tròn, nơi nhìn những ngọn lửa được nhen lên và người ta có thể đoán ra được tâm ý, sự đầu tư của người thắp lên ngọn lửa ấy qua từng loại củi. "Người Tày chúng tôi gọi fừn nèn là củi tết.
Là một người Tày, tác giả Y Phương có đủ mọi lợi thế để viết về tất cả mọi thứ xoay quanh văn hoá, cuộc sống, tình cảm... của dân tộc mình. Với "Fừn nèn - Củi tết", Y Phương như đã "rút hết gan ruột" qua từng con chữ, đắn đo từng dấu chấm, dấu phẩy, thương quý từng nếp xưa, nét cũ của những ngày tuy còn khốn khó nhưng tình người sống với nhau vuông tròn, nơi nhìn những ngọn lửa được nhen lên và người ta có thể đoán ra được tâm ý, sự đầu tư của người thắp lên ngọn lửa ấy qua từng loại củi. "Người Tày chúng tôi gọi fừn nèn là củi tết. Củi dùng để đun luộc bánh chưng, đồ xôi nếp chín cho vào cối giã làm bánh dày, vò bánh khảo, nặn thúc théc (bỏng gạo), đun quấy chè lam, chế biến đồ ăn, dọn cỗ bàn để tiếp đón khách quý gần xa" bởi "Theo quan niệm dân gian, củi là giống cái, lửa là giống đực. Giống cái mới làm nên mùa xuân. Nếu trên đời này chỉ có mỗi giống đực, sẽ chả nên trò trống gì. Có lửa mà không có củi, tết đến nhà nào cũng vô nghĩa. Ðời lạnh lẽo nhạt nhẽo vô cùng".
Mà có lẽ vậy, bởi xuyên suốt trong những bài tản văn của mình, Y Phương viết nhiều về lửa, về cách chế biến những món ăn, đến những tập tục của người Tày... chẳng hạn như món cháo ngựa, thịt hun khói, món bánh nếp chiên dính răng, cái ang nước được đặt trước cửa mỗi gia đình dùng để rửa chân cho chủ và khách trước khi bước chân vào nhà, bởi không có gì "xúc phạm" căn nhà và chủ nhà hơn việc vào nhà với đôi chân bẩn. Và cả niềm tự hào về "tiếng của dân tộc mình" theo cách "Tôi ngầm khoe với thiên hạ rằng tiếng Tày của tôi, thoạt nghe mềm thì như nước, mà ý tứ bên trong như sắt như đồng, như đinh đóng cột, như rồng phun mưa. Tiếng Tày tôi diễn đạt bất kể niềm vui nào, nỗi buồn nào cũng chính xác đến từng milimet. Nói: Tôi đang đói là đói. Nói: Tôi đang khát là khát. Nói: Tôi đang nhớ nhung người yêu liu diu chân dài đến nách. Là có thật. Nói: Tôi đang thèm muốn ôm hôn người tôi yêu, ngay bây giờ, tại nơi đông người này. Cũng đúng thế thật. Nói: Tôi đã từng mê một em bải hoải bài hoài như người đào củ mài cắm đầu xuống hố ngạt thở... Cũng đúng một trăm phần trăm" (Sóng tiếng Tày).
Vậy mà tiếng nói đó theo thời gian đã nhạt phai đi khi người trẻ của bản làng chạy theo xu hướng mới, thích mặc những bộ quần áo tân thời hơn trang phục truyền thống, thích nấu nướng qua loa hơn là những món phải đầu tư tâm sức, kỳ công. "Phải thấy hạt cơm rẽ mạt gừng lặn xuống đáy bát. Rồi hạt cơm ở đáy bát từ từ thay nhau ngoi lên, cùng nhau hý hớp lấy hơi thở sâu thở dài. Vừa thở vừa cười. Ðấy là lúc hạt cơm thúc nhau nở rộ. Nở toé toè loe. Nở hết cỡ. Bát cháo khi này không còn là cháo nữa, nó là một lẵng hoa nhỏ. Lẵng hoa có mùi thơm cay. Thơm cay là nét đặc trưng của cháo mạ. Không thể lẫn với các món khác. Nhưng trước khi ăn, ta nhớ đập một quả trứng gà tươi xuống trần. Sau đấy, con cháu mới kính cẩn mời các bậc trưởng lão dùng bữa sáng" (Cháo ngựa).
Hoặc như món phúng xàng lủng lẳng với cách chế biến theo cái cách mà nghe qua, người đọc như cứ mơ màng về một vùng đất cao biệt lập, nơi có mây trắng, trời xanh ngăn ngắt như chỉ cần đưa tay là có thể chạm được đến, chỉ có vậy thì món ăn mới "thần tiên" đến được như thế qua lời miêu tả của tác giả. "Có thể nói, phúng xàng là một món ăn tinh hoa của người Tày, Nùng. Món ăn tụ khí từ thiên nhiên, tiếp thu thêm hơi thở của con người. Bởi thế món phúng xàng ngon nức tiếng. Khi ta đem phơi phúng xàng, âm dương hoà hợp cùng với tâm hồn con người. Món ăn này không những tạo ra nguồn bổ dưỡng trực tiếp mà còn làm mới từng phần trong cơ thể người một cách hữu hiệu. Cắn một miếng phúng xàng nghĩa là bạn đang ngậm sông núi ở trong bụng..." (Phúng xàng lủng lẳng).
Ðọc những bài tản văn trong Fừn nèn - Củi tết là đọc những nét đặc sắc của người Tày qua góc nhìn của chính tác giả người Tày Y Phương, để tủm tỉm cười trước lý do tại sao người nhà của cặp vợ chồng mới cưới lại tìm cách "cấm chợ, ngăn sông" những chuyện rất ư là bản năng của đôi trẻ; hay phần nào giải đáp được thắc mắc tại sao món thịt hun khói treo gác bếp "thần thánh" ngon nức tiếng là vậy, treo quanh năm suốt tháng không đậy đụng thế kia nhưng lại "không có một con mèo, con chó, con chuột nào dám nhảy lên kéo thịt xuống ăn vụng. Bởi thịt hun khói hấp thụ đắng cay từ trong lửa khói. Mùi khói tạo ra một thứ vị đắng ngắt, chua lòm, cay hơn xé lưỡi... Nói chung cực kỳ khó chịu. Trước khi nấu người ta phải ngâm thịt thật lâu và rửa sạch bằng nước gạo. Nhưng chế biến xong, lại trở thành một món ăn độc đáo thơm ngon tới mức thần kỳ. Có khá nhiều cách nấu. Nhưng cách phổ biến nhất là thái mỏng thịt, xào lá tỏi. Cũng có thể xào khế chua thái lát. Cũng có thể xào lá mác mật... Nói chung là xào. Ít khi luộc. Nếu đem luộc, mùi khói lửa bị nhạt đi. Mất hương vị đặc trưng thịt hun khói" (Tết Tày có gì khác).
Còn có cách gọi vầng trăng chung của cả vũ trụ này theo cách gọi rất riêng. "Người Tày chúng tôi gọi trăng là nàng hai. Hai chữ nàng hai, nghe miêng miêng xa lắc. Có một vầng trăng bàng bạc xa mờ, thế nhưng nó lại xao xuyến ở trong con người". (Ngọn khói lên trời)...
Ðôi lúc bỏ qua những nhọc nhằn của đời thường, những suy tư, ngẫm ngợi những được - mất về quá khứ, tương lai rồi cùng nhau quây quần bên ngọn lửa Fừn nèn với "gỗ nghiến có mùi thơm rất lạ và cực kì hấp dẫn. Chỉ nhìn củi cháy thôi mà ta đã mềm lòng. Lửa củi nghiến hôn nhau tới tấp như tình yêu trai gái. Ðã bén lên là khó lòng dập tắt. Khói củi nghiến miên man lâng lâng như đang đưa mình bay lên. Lửa củi nghiến thổi ra những hạt lép bép. Những hạt sáng lung linh như hoa cà hoa cải. Chúng bay từng chùm xoả ra tung toé. Chúng lại cong cong thu về, rơi nhè nhẹ như pháo hoa. Khắp ba gian nhà ngói, chỗ nào cũng tỏa ra mùi củi nghiến. Mùi nó thơm ngỡ như ta đang trong vườn ổi giữa mùa" (Trích Fừn nèn - Củi tết)" để rồi thấy bốn mùa tuần tự trôi qua, thấy dòng thời gian như được thắp lửa bởi những âm vang trong tâm hồn của mỗi bản sắc dân tộc./.
Ngọc Lợi