Nói đến kho quẹt thì phải nói đến rau tập tàng, loại rau "năm cha bảy mẹ" này lại có sức quyến rũ vô cùng bởi hương vị và cái cảm rất lạ với ai ăn lần đầu.
Nói đến kho quẹt thì phải nói đến rau tập tàng, loại rau "năm cha bảy mẹ" này lại có sức quyến rũ vô cùng bởi hương vị và cái cảm rất lạ với ai ăn lần đầu.
Hương vị thì có nhiều do mỗi cây mỗi vị, nhưng với sự pha trộn khéo léo của các bà mẹ quê bữa cơm sẽ ngon hơn, đậm đà hơn. Thông thường thì vườn quê nào cũng có vài luống rau trồng như rau muống, tần ô, mồng tơi, cải cay, mướp đắng, khoai lang… Có khi còn có cả su su, bầu bí. Kết hợp với các loại rau thiên nhiên như rau má, mã đề, rau dền, cần nước… của miền Trung, hay điên điển, càng cua, rau nhúc, đọt xoài, so đũa, bồn bồn... của miền Nam ta có món rau tập tàng rất giàu dưỡng chất và hương vị.
Rau tập tàng thường luộc rồi chấm với kho quẹt. Món kho quẹt thời thiếu thốn chỉ có mỡ và nước mắm, có thêm muỗng đường hay bột ngọt càng ngon. Phi hành tỏi cho thơm trên mỡ hay dầu rồi cho hỗn hợp mắm đường, tiêu xay vào. Ðun nhỏ lửa đến khi hỗn hợp hơi sánh lại là được. Kho quẹt ăn với cơm nóng, cơm nguội đều ngon. Ðạm bạc là thế nhưng những đứa trẻ quê vẫn lớn phổng, lớn nhanh hơn tuổi, có thể san sẻ việc đồng với chị, với anh.
Giờ thì kho quẹt đã không còn "bó gối" trong luỹ tre làng. Nó chễm chệ trên mâm của người thành phố với chất lượng và hương vị đỉnh bởi có thêm thịt ba chỉ, tôm khô rang vàng rồi kho. Ngon hơn nữa thì có thêm tóp mỡ. Một sự hoà quyện đến tuyệt hảo khiến ta nhớ hoài.
Món quê giờ không còn quê như ta nghĩ nữa và rau tập tàng giờ không thật sự tập tàng như thời mẹ tôi xưa. Rau tập tàng thời mẹ tôi ngoài rau còn có cả nấm mối, nấm mèo, bông bí, kim châm… dù chỉ một vài tai, một vài bông nhưng hương vị do chúng mang lại thật tuyệt vời.
Cũng do sở thích của người dân từng vùng miền mà họ có những món ăn riêng phù hợp với thu nhập, phong tục tập quán của họ. Nơi sản xuất ra tương, ra mắm thì người ta dùng tương, dùng mắm. Có lẽ do thuận tiện và luôn có sẵn lại không tốn thời gian nấu nướng nên nó là sự lựa chọn của các bà mẹ quê luôn phải bận rộn việc đồng.
Xa quê, gặp lại món quê sao lòng cứ ai hoài, khắc khoải. Thương lắm những người đầu tên mũi đạn từng sống bằng cháo bẹ rau măng để kháng chiến trường kỳ, để giang sơn thống nhất, món kho quẹt dân dã tầm thường đâu phải lúc nào cũng có trên bát, trên mâm của họ. Hạt muối nhiều khi còn không có huống chi là mỡ, là dầu. Càng thương khi đất nước giờ khá đủ đầy, sung túc. Sự hoang phí vì thế mà cũng trương phồng lên. Những bữa ăn thừa mứa, những chai rượu đắt tiền vung vãi không làm nên danh giá của một con người nhưng người ta vẫn cứ phung phí. Họ đâu biết ngoài kia, dưới gầm cầu, trong góc chợ bao cuộc đời rất cần được ấm áo no cơm, được đùm bọc chở che, giúp đỡ tận tình./.
Lý Thị Minh Châu