Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Trường Tuyên huấn Trung ương III phụ trách công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ tuyên huấn - báo chí - tuyên truyền từ Ðà Nẵng trở vào phía Nam. Năm 1978-1979, trường này mở lớp báo chí trung hạn. Tỉnh Minh Hải (Cà Mau - Bạc Liêu) có số học viên đông nhất, hơn 20 người. Cuối năm 1979, lớp bế giảng, chúng tôi về bổ sung cho Báo và Ðài Phát thanh Minh Hải (hồi đó tỉnh chưa có truyền hình).
Lúc đó, báo - đài địa phương gồm những người trưởng thành từ trong kháng chiến dạn dày kinh nghiệm, mặc dù hầu hết chưa đào tạo chính quy, trình độ văn hoá ít ai học hết cấp l. Còn lớp trẻ này hầu hết tốt nghiệp phổ thông, được trang bị kiến thức chính trị cơ bản: chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghiệp vụ báo chí được hấp thu từ các nhà báo lớn như: Lưu Quý Kỳ, Hữu Thọ, Trần Thanh Xuân, Nhiếp ảnh gia Lâm Hồng Long, Tôn Lập, cây phóng sự điều tra Trần Quang Thịnh...
Cho đến bây giờ ngẫm ngợi, chúng tôi vẫn thấy cảm động và biết ơn Ðảng đã cho mình ăn học, bồi dưỡng, đào tạo cho có kiến thức để cống hiến tốt hơn trong lúc đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh nghèo khó tột cùng. Dù vậy, chúng tôi vẫn thấy mình thiếu thốn trầm trọng, nếu không nói là tay trắng về vốn sống, kinh nghiệm và kỹ năng tác nghiệp chuyên môn. Cũng cùng chứng kiến một sự kiện mà các anh thấy được điều để đưa tin, còn mình thì mù tịt; các anh ngồi vài phút là nộp tin cho toà soạn, còn mình vật lộn sáng đêm mà cái tin không ổn, bị biên tập cắt, gạch đỏ trang, có khi còn phải viết lại. Lo là vậy, nhưng sức trẻ, lòng yêu nghề đã thúc giục chúng tôi hăm hở. Bám sát bậc đàn anh trong tác nghiệp và xung phong đi thực tế, bất chấp địa bàn xa xôi cách trở giao thông, thiếu thốn, đói khát. Hết đò, quá giang xuồng, cuốc bộ cả ngày trời. Ðói, "chặt mặt lạnh" ghé nhà dân xin cơm...
Nhớ có lần tôi với anh Lê Vũ Hoàng (Nguyên Phó giám đốc Ðài Phát thanh - Truyền hình Cà Mau) quá giang xuồng về Cơi Năm - Ðá Bạc, xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời. Ðến hết xã Trần Hợi, chủ xuồng rẽ hướng khác. Hai đứa tôi phải lên bờ đi bộ. Trời nhá nhem tối, bờ đất lầy lội, lau sậy um tùm. Vùng này rắn hổ mang nhiều lắm. Thấy anh Hoàng lo lo, tôi đùa: "Anh yên chí lớn đi, tui đi trước cầm nhánh chà đập đập, rắn lánh mặt, mình ung dung. Ði chút thì tới hà!".
![]() |
Nói cho anh bớt nản chớ tôi biết phải đi bộ hơn 2 tiếng mới có chỗ nghỉ. Chúng tôi đến Nông trường bộ U Minh - Nông trường toàn người tỉnh Hà Nam Ninh kết nghĩa vô khai thác, xây dựng vùng kinh tế mới. Chủ nhà ân cần, niềm nở cho ăn cơm, cấp cho mùng mền ngủ. Thấy tôi được tặng gói thuốc lá Hoa Mai mừng húm, anh Vũ Hoàng tủm tỉm cười. Làm việc ở xã Khánh Bình Tây 3-4 ngày chúng tôi về. Ngặt nỗi, ra đến vàm Cái Tàu thì không còn tiền đi tàu đò về thị xã Cà Mau. Trong túi còn 10 xu, đủ mua 2 cái bánh ú lá tre cho hai đứa lót dạ. Tôi nói: "Không có tiền sao mình ra Cà Mau được? Tui với anh vô luôn Thới Bình. Tàu ghé ngay trạm xăng dầu, thằng bạn tui - trưởng trạm sẽ trả tiền đò, rồi mình tá túc ở đó luôn, mơi tính tiếp. Ðêm nay hổng chừng còn có mồi bén, rượu đế nữa chớ chẳng chơi...".
Trở lại chuyện làm báo Tết. Nói làm báo Tết thì không chỉ có viết bài và chụp ảnh. Nó là một chuỗi công đoạn: xây dựng đề cương theo chủ đề tư tưởng, chọn đề tài, phân bổ địa bàn, giao nhiệm vụ, biên tập, in ấn, phát hành.
Năm đầu đi viết báo Tết trong dạ nôn nao, rạo rực, lo âu. Gió chướng rao ngọn, lúa chín vàng đồng mà mãi không nghĩ ra hình thù bài báo của mình sắp viết, đêm nằm trằn trọc không sao ngủ được. Rồi ngày họp cơ quan cũng tới. Tôi làm phóng viên Phòng Kinh tế - Quốc phòng, được phân công viết về bộ đội xây dựng nông trường nuôi tôm trong rừng đước.
Hồi đó phương tiện giao thông công cộng thiếu thốn, đi lại khó khăn, cuối cùng tôi cũng đến được nông trường bộ đội nuôi tôm. Phóng tầm mắt nhìn bao la rừng đước, triều lên sông nước mênh mang, đêm bộ đội thắp đèn măng xông sáng rực doanh trại, thu hoạch cả chục tấn tôm một con nước. Mấy ngày ở với bộ đội ăn cua, cá phủ phê... Ðinh ninh tư liệu đủ vốn, tôi về toà soạn, viết.
Viết ngày viết đêm. Cúp điện, đốt đèn cầy, viết. Viết rồi xoá, rồi xé. Qua mười mấy ngày, thấy cũng không xong, nhưng đành viết sạch để thông qua. Không phải như bây giờ nộp bản thảo trên email, gửi Zalo đâu. Báo Tết, bài của ai người ấy đọc. Buổi thông qua báo Tết như ra hội đồng tốt nghiệp. Thành phần là Ban Biên tập, lãnh đạo các phòng chuyên môn và toàn bộ phóng viên.
Ðầu tiên Phi Thường (Nguyên Giám đốc VTV Cần Thơ trước khi nghỉ hưu), phóng viên Phòng Văn xã, đọc bút ký "Làng rừng", tôi nghe thật mượt mà, tình cảm, sâu sắc, lãnh đạo gật gù, thấy chiều suôn sẻ. Kế tiếp, Ung Ngọc Quân (sau này Phóng viên Báo Nhân Dân) cũng phóng viên Phòng Văn xã, lấy bút danh Anh Ngọc, thông qua bài "Sức trẻ và những chiến công", viết về thanh niên xung phong đi khai thác, khôi phục rừng. Bài anh viết sôi nổi, trẻ trung, mọi người nghe phấn chấn. Tới lượt mình, tôi vừa đọc bài vừa liếc nhìn chung quanh. Không khí sao như chùng xuống, với tôi, đó là sự im lặng đáng sợ. Bài tôi viết 8 trang khổ A4 mà tôi tả cảnh đâu hơn 6 trang rồi. Lúc đọc đoạn mà mình cho là "ngon" nhất, tôi thấy Nhà báo Tạ Việt Hoa (chú Chín Tửng), Phó tổng Biên tập, xoay ngang. Tôi thông qua xong, phòng họp im lìm. Hồi lâu, Nhà báo Phạm Văn Tri (chú Bảy Minh), Phó tổng Biên tập, xin ý kiến mọi người phát biểu. Phóng viên thì im re, chắc họ ngại nói vì thông cảm cho tôi. Chú Chín Tửng phán một câu xanh rờn: "Tác giả cũng chịu khó đầu tư tư liệu nhưng thể hiện sao lan man quá, chưa đi vào trọng tâm!". Còn chú Bảy Minh thì cười xởi lởi: "Sao miêu tả nhiều quá hén!". Tôi hoang mang tột cùng. Tối đó, Nhà báo Tô Ðoàn Hùng, Trưởng phòng Văn xã rủ tôi và mấy anh em phóng viên đi nhậu rượu đế với cóc ổi, cốt là để động viên tôi.
Anh tâm sự: "Mới về Toà soạn mà được tham gia báo Tết là ngon rồi. Tao hồi đó vô báo Chiến Ðấu của Sóc Trăng toàn nghe radio chép tin đọc chậm của Ðài Giải Phóng, Ðài Hà Nội, mấy năm mới được viết tin, rồi sau nữa mới cho viết bài. Bài bị dạt là chuyện cơm bữa. Có gì mà lo. Mai về chỉnh lại rồi đưa tao coi, tao tiếp cho. Dô cốc đi".
Hồi đó tốp phóng viên tụi tôi đâu dám nhìn vô bàn Ban Biên tập khi mấy chú đang duyệt bài. Trong lòng cứ nơm nớp lo không biết bài mình có được đăng hay không. Vì vậy, mấy đứa tôi hay đến phòng đánh máy giả bộ đọc bản thảo giúp cho 2 cô đánh máy chữ để họ đánh mau hơn. Hễ thấy bài mình được tới đó là mừng thầm trong bụng. Thấy tôi hay đứng ở phòng đánh máy có cô Huệ thư ký hiền hậu, trắng trẻo, dễ thương nên mấy người kia ghẹo: "Tương trợ, giúp đỡ tận tình quá ha!". Tôi phản hồi: "Một công hai việc mà!".
Vậy rồi bản thảo tờ báo Tết cũng xong, vẽ ma-két (lên khuôn). Sau khi thông qua Thường trực Tỉnh uỷ ảnh bìa 1, mấy "thầy trò" khăn gói đùm túm bản thảo, bản vẽ lên TP Hồ Chí Minh in báo ở Nhà in Báo Sài Gòn Giải Phóng. Nhà khách Tỉnh uỷ số 128, đường Sương Nguyệt Anh cho ở nhờ, đóng tiền cơm giá hỗ trợ. Năm 1980 còn bao cấp, lương ít ỏi, đâu có tiền ăn sáng, bữa nào có ly cà phê đen là khoái lắm. Ðêm vô nhà in đọc bài, sửa bản in tới khuya, đói bụng, buồn ngủ, mấy chú cháu, anh em vét tiền túi ra quán cóc vỉa hè mua chai rượu đế nhậu với xương súp. Xong lại vào xưởng máy coi bản in nháp. Mỏi mòn, nằm trên đống giấy nghe tiếng máy chạy xục xạc đều đều, ngủ ngon lành. Có chuyện nhớ mà cười ra nước mắt. Bữa đó rảnh việc, Doãn Binh - Hoạ sĩ, hớn hở báo với tôi: Ông tài xế bắt được mối bốc vác 3 tấn giấy lên xe tải, tiền công 100 ngàn - gấp đôi lương tháng tụi tôi thời đó. Vậy là tụi tôi ra áo làm bốc xếp bất đắc dĩ. Làm xong, chuẩn bị nhận tiền thì mới hay mình chất giấy nhầm xe, phải làm lại từ đầu. Vậy mà vẫn mừng rơn!
Năm đó tờ báo Tết đẹp, đồng nghiệp các tỉnh cùng đi in khen ngợi, số lượng đặt hàng cũng nhiều nhất so với trước đó. Báo về tới Toà soạn, cả cơ quan vui mừng khôn xiết. Ban Biên tập phân công phóng viên, nhân viên mang báo về tận vùng sâu vùng xa, vùng kháng chiến cũ phát hành.
![]() |
Nhà báo Hồ Bình Ðại (Mười Ðại), Phó trưởng phòng Trị sự, rủ tôi phát hành một số xã của huyện Cái Nước, Ðầm Dơi quê anh. Ông nói, xứ tao mùa này mồi nhậu phủ phê. Còn tôi được về nơi chôn nhau cắt rún nên cũng nôn nao. Nhận số lượng báo, ứng tiền công tác phí vừa xong thì Mười Ðại kéo tay 2 ông cán bộ huyện mới lên tỉnh chờ sáng mai hội nghị, rồi nháy tôi: "Nhớ hôn. Mối cũ Bàu Dừa, Quách Phẩm B không nè". Vậy là ra quán. Hôm sau chúng tôi đi hết xe rồi đến tàu đò xuống thẳng xã Trần Phán, huyện Ðầm Dơi. Sắp đến nơi tôi báo đã hết tiền. Mười Ðại: "Lo gì chuyện lẻ tẻ này. Ghé chợ Chà Là mình bán vài chục tờ là có tiền nữa rồi". Tàu cập bến, hai đứa tôi chuyển báo lên bờ. Chợ nhóm sáng kẻ mua người bán, trên bến dưới thuyền tấp nập. Tôi đứng xớ rớ bên chồng báo. Có bà đi chợ hỏi tôi mua bán gì, tôi nói bán báo, dì có mua không, bà lắc đầu bỏ đi. Tôi ngán ngẩm. Chợt nghe tiếng kêu to: "Anh Mười hả? Lâu quá không gặp. Ði đâu, làm gì vậy trời?". Chợt nhìn thấy mấy tờ báo tôi cầm trên tay, anh ta "à, nhà báo đi bán báo Tết chớ gì!". Mười Ðại: "Làm báo thì bán báo chớ bán gì bây giờ. Mà sao xứ này người ta không mua báo, mậy?". Anh kia: "Ðâu mà không mua. Ðể tui". Ðoạn anh ta biểu tôi rinh chồng báo tới chỗ nhiều người túm tụm mua hàng, anh cất giọng: "Trời, Báo Minh Hải Tết hả? Ðẹp quá ta. Hình cô gái lái máy cày tươi rói, qua Tết con gái tui đem treo cửa buồng hết sẩy. Bao nhiêu một tờ vậy? đưa tui chục tờ đi!". Rồi anh ta trả tiền, cầm mấy tờ báo, mắt nháy Mười Ðại, bước đi. Vậy rồi mấy bà, mấy cô xúm lại mua báo ào ào, tôi bán cái vèo sạch trơn, chỉ chừa lại cho cơ quan xã mấy tờ.
Tôi lần theo hướng Mười Ðại và anh kia một đoạn thì nghe hai người vừa kêu vừa ngoắc tôi vô căn nhà lá nền đất có mái hiên mát mẻ. Chỗ đó trên bộ vạc cau 4-5 người cười nói râm ran. Ở giữa, trên tàu lá chuối có con cá lóc to bằng bắp chân nướng rơm, kế bên là mớ rau cần nước và chai rượu đế trong như mắt mèo, nút đậy bằng lá chuối khô. Rượu rót tràn ly, vô trăm phần trăm mấy vòng, Mười Ðại nhìn qua tôi: "Thằng này em bà con với tao, tên Trải, hồi trước đi Ðoàn Văn công Cà Mau, giờ vừa làm ruộng vừa hụ hợ thông tin văn hoá xã". Anh tên Trải tiếp lời: "Xứ mình hồi đó chiến tranh không ai bán báo, đâu như ngoài chợ bán báo là có ngươi mua ào ào. Phải Sơn Ðông mãi võ dị mới bán được. Thôi, vô cái nữa nghen!". Hai đứa tôi say mèm, ngủ luôn nhà anh Trải, sáng hôm sau anh gởi xuồng bà con đi chợ cho quá giang sang xã khác tiếp tục làm công việc phát hành tận vùng sâu, vùng xa.
Các nhóm khác cứ cầm giấy giới thiệu ghé xã uỷ giao báo, lấy biên nhận hẹn tháng sau thu tiền. Còn tôi với Mười Ðại hầu như đi đến đâu cũng bán hết, thu tiền gần đủ. Về cơ quan, hai đứa tôi báo lại việc phát hành hết, thu tiền gần đủ, được khen. Nhưng đâu ai biết, có tiền trong túi, Mười Ðại gặp chí cốt cũ thời kháng chiến là “lịnh” tôi chi. Sau đó hai đứa tôi bị trừ lương hằng tháng cho tới mùa làm báo Tết năm sau.
Nói lại chuyện viết báo, Nhà báo Hữu Thọ, nguyên Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, nguyên Trưởng ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, có câu nói sắc sảo đối với nghề báo: "Mắt sáng, lòng trong, bút sắc". Tôi cứ ngỡ học nhiều kiến thức là mắt sáng. Nhưng thực ra, lý luận mà không kết hợp nhuần nhuyễn với thực tiễn, không được thực tiễn kiểm nghiệm là lý luận suông. Khư khư cái lý luận suông ấy thì mắt đâu sáng được. Muốn bút sắc thì phải mài giũa rèn luyện. Bài báo đầu tiên của tôi "gãy cánh" cũng là do mắt chưa sáng, bút chưa sắc. Cũng may là lòng vẫn trong từ ngày mới cầm bút cho tới bây giờ và nguyện sẽ giữ lòng trong mãi./.
Nguyễn Bé Ngân Phương