Vùng kinh tế trọng điểm ÐBSCL là vùng phát triển động lực của khu vực, gồm 4 trong 13 tỉnh, thành là Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang và Cà Mau. Giai đoạn 2011-2015, kinh tế - xã hội của vùng đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo đà và động lực cho giai đoạn tiếp theo.
Vùng kinh tế trọng điểm ÐBSCL là vùng phát triển động lực của khu vực, gồm 4 trong 13 tỉnh, thành là Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang và Cà Mau. Giai đoạn 2011-2015, kinh tế - xã hội của vùng đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo đà và động lực cho giai đoạn tiếp theo.
Tuy nhiên, sự phát triển này chưa tương xứng với tiềm năng của một vùng kinh tế có nhiều điều kiện thuận lợi về tự nhiên và con người để trở thành trung tâm kinh tế của cả vùng, nhằm tạo sức lan toả, thúc đẩy các địa phương trong vùng phát triển.
Tiềm năng rất lớn
Với tổng diện tích hơn 16.600 km2, dân số khoảng 6,4 triệu người, 4 địa phương của vùng kinh tế trọng điểm (KTTÐ) có nhiều thế mạnh: “bồ lúa lớn” của vựa lúa to nhất nước; kho thuỷ hải sản dồi dào, gồm tôm, cá tra, cá basa và ngư trường biển Tây trù phú.
![]() |
Ðạm Cà Mau đã khẳng định được chất lượng và là thương hiệu lớn của thị trường trong nước. Ảnh: LAN ANH |
Ngoài ra, thế mạnh về cây ăn trái, rau màu và kinh tế biên mậu nhộn nhịp là lợi thế khó so sánh. Hằng năm, vùng KTTÐ này đóng góp tỷ lệ quan trọng, đưa cả khu vực ÐBSCL đứng đầu cả nước về xuất khẩu gạo, thuỷ sản, cây ăn trái...
Giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng (GDP) bình quân của vùng KTTÐ ÐBSCL khoảng 11%/năm; năm 2015 thu nhập bình quân đầu người ước đạt khoảng 2.470 USD/năm (tương đương 51,03 triệu đồng/người/năm)... Ước giai đoạn 2011-2015, tổng sản lượng lúa của vùng đạt trên 51 triệu tấn, thuỷ hải sản đạt 7,7 triệu tấn. Công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ của vùng phát triển khá. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011-2015 của 2 khu vực này khoảng 9,55%/năm và 12,82%/năm.
Hạ tầng giao thông có bước phát triển, tạo kết nối giữa các địa phương vùng KTTÐ với các địa phương khác trong vùng. Một số công trình giao thông quan trọng được ưu tiên đầu tư nâng cấp và hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng; nhiều khu đô thị, tái định cư mới được các địa phương đầu tư xây dựng, cùng với việc cải tạo nâng cấp một số công trình lớn trên địa bàn các địa phương trong vùng, đặc biệt vùng KTTÐ được đầu tư xây dựng... tạo nên mạng lưới giao thông đồng bộ. Bên cạnh đó, công tác an sinh xã hội trong vùng được đảm bảo, đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân không ngừng được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh và thấp hơn so với bình quân chung của cả vùng.
“Mờ nhạt” vai trò trọng điểm
Khi quyết định thành lập vùng KTTÐ ÐBSCL, Chính phủ xác định đây là vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thuỷ sản, cây ăn trái, góp phần quan trọng vào đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đóng góp lớn vào xuất khẩu nông sản, thuỷ sản cả nước. Ðây là trung tâm năng lượng, dịch vụ - du lịch lớn của cả nước; là cầu nối trong hội nhập kinh tế khu vực và giữ vai trò quan trọng về quốc phòng, an ninh của đất nước. Ngoài ra, vùng KTTÐ còn đóng vai trò quan trọng trong chuyển giao công nghệ sinh học, cung cấp giống, các dịch vụ kỹ thuật, chế biến và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của vùng.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Trung Hiếu, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, nhận định: “Mặc dù ÐBSCL được mệnh danh là vùng kinh tế hàng hoá nhưng toàn vùng chỉ mới có hơn 40 km đường cao tốc, đây là con số quá ít so với hơn 700 km đường cao tốc của cả nước. Do hạ tầng giao thông chưa phát triển nên kinh tế các tỉnh, thành vùng KTTÐ và cả ÐBSCL vẫn chưa ngang tầm cả nước, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của vùng".
Ông Nguyễn Tiến Hải, Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, chia sẻ: “Những năm gần đây, các địa phương trong vùng KTTÐ và cả vùng ÐBSCL nói chung thường xuyên bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bất thường của biến đổi khí hậu và hiện tượng nước biển dâng, hạn hán, xâm mặn. Cà Mau là tỉnh dễ bị tổn thương nhất do biến đổi khí hậu bởi vì có tới 3 mặt giáp biển. Mùa khô vừa rồi, hạn hán, xâm mặn gây thiệt hại lớn cho địa phương. Tình trạng sụt lún đất ngày càng nghiêm trọng, sạt lở ven biển cũng gia tăng. Nếu như cách nay 10 năm, đất rừng phòng hộ còn vươn ra biển đến 2 km thì nay sạt lở đã vào tận chân đê”.
Ông Lê Văn Nưng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang, cho rằng, vùng Tứ giác Long Xuyên có diện tích 500.000 ha, mỗi năm sản xuất hơn 5 triệu tấn lúa cùng nhiều sản phẩm chăn nuôi, thuỷ sản nhưng hiện đang tiềm ẩn nhiều rủi ro, như: lợi nhuận nông nghiệp tăng chậm, hệ thống hạ tầng phục vụ nông nghiệp chưa được đầu tư phát triển, nguồn nhân lực kém.
Bà Lê Thị Minh Phụng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang, lo ngại: Kết cấu hạ tầng giao thông của vùng còn yếu kém, chính điều này gây khó khăn, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội vùng KTTÐ, làm hạn chế vai trò là “đầu tàu” kéo cả vùng ÐBSCL phát triển.
Liên kết tạo sức bật
Ðể vùng KTTÐ phát triển đúng định hướng, trở thành đầu tàu động lực cho cả ÐBSCL, các chuyên gia cho rằng cần thúc đẩy liên kết phát triển giữa các tỉnh, thành trong vùng KTTÐ và giữa vùng KTTÐ với TP Hồ Chí Minh, các tỉnh khác trong vùng và trong cả nước trên các lĩnh vực. Trong tái cơ cấu nông nghiệp, cần phối hợp trong quy hoạch và xây dựng vùng nguyên liệu, phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản nông sản sau thu hoạch; đẩy mạnh ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất.
Theo ông Võ Thành Thống, Chủ tịch UBND TP Cần Thơ, Chủ tịch Hội đồng vùng KTTÐ giai đoạn 2015-2016, vùng KTTÐ cần liên kết để phát huy các thế mạnh, khắc phục các hạn chế, vượt qua thách thức, giải quyết kịp thời vấn đề phát sinh trong thực tiễn có tính chất vùng, kết nối và phát huy được tiềm năng của các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm. Các tỉnh, thành trong vùng cần đưa ra các giải pháp hợp tác đào tạo nguồn nhân lực để phát huy thế mạnh của các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, các trường dạy nghề trên địa bàn, tránh sự trùng lặp, kém hiệu quả.
Ðồng thời, ông Võ Thành Thống kiến nghị bộ, ngành Trung ương tập trung nguồn lực hỗ trợ thực hiện các công trình trọng điểm như: xây dựng tuyến cao tốc Cần Thơ - Châu Ðốc; đầu tư dự án hạ tầng phục vụ tái cơ cấu nông nghiệp vùng Tứ giác Long Xuyên; xây dựng hoàn thiện tuyến đường Hành lang ven biển phía Nam; xây dựng các nhà máy nước Sông Hậu 1, Sông Hậu 2 và Sông Hậu 3...
Ông Trần Ngọc Hùng, Vụ trưởng Vụ Kinh tế địa phương và lãnh thổ, Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Ðiều phối các vùng KTTÐ (Bộ KH&ÐT) đánh giá cao và nhất trí với kế hoạch liên kết phối hợp toàn vùng KTTÐ giai đoạn 2016-2020. Ông Trần Ngọc Hùng cho rằng, đây là cơ sở để các địa phương phối hợp chặt chẽ hơn, thật sự trở thành hạt nhân cho sự phát triển vùng KTTÐ. Phát triển kinh tế là cốt lõi, trung tâm phát triển các lĩnh vực khác, nó tạo ra sức lan toả, hỗ trợ phát triển của cả ÐBSCL./.
Ðầu tháng 11 vừa qua, tại Cần Thơ, Hội đồng Vùng KTTÐ ÐBSCL đã tổ chức hội nghị lần thứ nhất. Tại hội nghị, các địa phương thành viên của hội đồng đã xác định cơ chế liên kết trong quy hoạch, sản xuất và phát triển kinh tế - xã hội, thống nhất kiến nghị bộ, ngành Trung ương tập trung nguồn lực hỗ trợ các công trình trọng điểm. Các thành viên đã thống nhất bầu ông Nguyễn Tiến Hải, Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, giữ nhiệm vụ Chủ tịch Hội đồng giai đoạn 2017-2018. |
Minh Trường