ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 6-10-24 21:10:10
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nan giải bài toán nước sạch

Báo Cà Mau (CMO) Với đặc thù 3 mặt giáp biển, Cà Mau không tiếp cận được nguồn nước mặt từ hệ thống sông Mê Kông, từ đó dẫn đến hiện tượng chủ yếu sử dụng nước ngầm 100% cho sinh hoạt. Tính đến hiện tại có 77,05% sử dụng giếng nước riêng lẻ hộ gia đình, 17,47% sử dụng nước cấp tập trung. Cần lắm giải pháp dẫn nước mặt từ hệ thống sông Mê Kông để cấp nước sinh hoạt cho bán đảo Cà Mau nhằm thay thế nguồn nước ngầm. Song song đó, việc bố trí hỗ trợ nguồn vốn để xây dựng hệ thống cấp nước tập trung, đạt chất lượng nước sạch ổn định và bền vững để thực hiện tiêu chí 17.1 trong xây dựng nông thôn mới cũng là vấn đề cấp thiết đang được đặt ra.

Bài 1: Khát nước mùa hạn

Cà Mau vào mùa khô hạn là lúc phải đối mặt với tình trạng thiếu nước. Những vùng nông thôn của huyện Trần Văn Thời, U Minh, Thới Bình... người dân đã và phải tập “quen” với chuyện “khát nước”.

Ðường ống nước không tới…

Ðến với khu vực Vườn Quốc gia U Minh Hạ (ấp Vồ Dơi, xã Trần Hợi, một phần xã Khánh Bình Ðông, huyện Trần Văn Thời và một phần xã Khánh An, huyện U Minh) sẽ bắt gặp khá nhiều hộ đến thời điểm này vẫn chưa tiếp cận được nguồn nước sạch. Họ phải từng ngày đối mặt với nỗi trăn trở thiếu nước sinh hoạt, nhất là mùa nắng hạn lại càng nan giải hơn.

Sử dụng nước "chia hơi" là nỗi ám ảnh của người dân ở Ấp Dồ dơi, xã Trần Hợi

Ông Nguyễn Hoàng Phong, quản lý trạm cấp nước, cho biết: “Nơi đây có 530 hộ đang sử dụng nước hợp vệ sinh của Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường tỉnh Cà Mau (nước đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia) và hàng trăm hộ không có nước để sử dụng. Ðặc điểm chung là khoan giếng không được, có hộ khoan 7 lần vẫn không đạt yêu cầu”.

Theo ông Trần Anh Phương, Phó trưởng phòng Cấp nước và Kế hoạch kỹ thuật, Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường tỉnh, lúc đầu thiết kế trạm nước này lên tới 450 m3/ngày đêm, phục vụ khoảng 300 hộ; nhưng do nhu cầu sử dụng cao nên đường ống thiết kế chưa đến những hộ dân lân cận. Trạm cấp nước nơi đây được bơm từ nguồn nước ngầm với hình thức khoan sâu nhưng trữ lượng nước không nhiều. “Ðến nay tỷ lệ hộ dân ở nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh từ các công trình cấp nước tập trung trong toàn tỉnh chỉ đạt 17,47% (theo tiêu chí xây dựng nông thôn mới phải đạt 40%)”, ông Phương trăn trở.

Mỗi buổi sáng hoặc trong giờ cao điểm đều xuất hiện tình trạng nước chảy yếu, đặc biệt là khu vực cuối đường ống. Theo ông Nguyễn Hoàng Phong, tuyến đường ống nước không dẫn đến được hộ dân khoảng 5 cây số (khoảng 200 hộ). Một số hộ đầu tư công sức, tiền của để khoan giếng nước ngầm nhưng vị nước hơi mặn, không đảm bảo vệ sinh nhưng buộc phải sử dụng.

Bà Huỳnh Thị Hơn (80 tuổi), ấp Minh Hà B, xã Khánh Bình Ðông, huyện Trần Văn Thời, cho biết, xưa tới giờ chỉ đi đổi nước để sử dụng vào mùa khô. Gia đình đã khoan giếng 7 lần không thành công, bấm bụng khoan thêm lần thứ 8 thì chất lượng nước không thể tệ hơn. Ở đây bà con không cần "cứu đói" mà chỉ cần "cứu khát”.

Khảo sát thêm một số hộ khác sẽ phát hiện tình trạng sử dụng nước “chia hơi”. Nghĩa là nước sạch được truyền từ nhà phía bên kia sông qua những hộ dân đối diện, sau đó được nối bằng ống nước nhỏ (ống 21), vậy là phục vụ được gần cả chục hộ sinh hoạt; nhà này nối với nhà kia để sử dụng nước. “Do điều kiện nước đi xa quá nên giảm áp, đặc biệt giờ cao điểm thì nước chảy rất yếu”, ông Phong trần tình.

Bà Trần Thị Út, xã Khánh Bình Đông luôn ước ao có đường ống tới nhà, không phải sử dụng nước "chia hơi" nữa.

Song song đó, một số hộ dân khu vực còn vất vả hơn khi phải sử dụng nước vuông tôm (tức là nước mặn) lên để rửa chén, sinh hoạt… Tiếp đến, họ mới xả lại nước ngọt tiết kiệm từ nước vo gạo. Xót xa nhất là trẻ em tại khu vực này hầu như phải tắm nước sông, nước vuông, rồi mới chắt chiu từng giọt nước ngọt để tắm lại.

Ông Từ Thanh Tùng, Trưởng ấp Minh Hà B, xã Khánh Bình Ðông, chia sẻ: “Riêng ấp hiện có 160 hộ nhưng đã có 59 hộ thiếu nước. Dân ở đây trữ nước mưa và mua nước bình để sử dụng. Trước đây có nhiều nhà nghiên cứu địa chất đến đây để lấy mẫu nước nhưng đến giờ vẫn biệt tăm. Mong muốn lớn nhất của tôi cũng như những hộ dân khác là có nguồn nước sạch để sử dụng trong sinh hoạt, sản xuất”.

Nguồn nước sạch khan hiếm tại ấp Minh Hà B, xã Khánh Bình Đông, huyện Trần Văn Thời.

… Nhiều trạm nước xuống cấp

Tỉnh Cà Mau có 247 công trình nước sạch tập trung, có công suất 18.000 m3/ngày đêm. Thế nhưng, tình trạng thiếu nước sinh hoạt còn diễn ra thời gian rất lâu ở nhiều địa phương. Tiêu biểu như ở xã Khánh Thuận, huyện U Minh.

Anh Ðỗ Thanh Tùng, phụ trách nước sạch, UBND xã Khánh Thuận, cho biết: “Hiện nay địa phương đang quản lý 3 trạm bơm lớn (do Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường tỉnh Cà Mau đầu tư xây dựng) và 4 trạm bơm nhỏ có trang bị hệ thống lọc, cung cấp khoảng 600 lít nước mỗi ngày/trạm”.

Ở các Ấp 12, 16, 17, 19, 20, 21 khoan cây nước không được. Nguồn nước bị nhiễm mặn dẫn đến việc bà con nơi đây phải trữ nước mưa trong lu, khạp để sử dụng hàng ngày; có khoảng 800 hộ dân thiếu nước. Thời gian qua, nhờ các mạnh thường quân, nhà hảo tâm hỗ trợ, địa phương đã xây dựng được các trạm lọc nước cho bà con, tuy nhiên hiện nhiều trạm nước bị hư hỏng. Do kinh phí sửa chữa, bảo trì lớn, trong khi địa phương không có nguồn nên một số trạm nước không hoạt động, người dân phải đi các trạm lân cận để chở nước về sử dụng.

Bà con xã Khánh Thuận đến các trạm nước chở nước về nhà để sinh hoạt.

Ông Phạm Quốc Thiện, Phó chủ tịch UBND xã Khánh Thuận, trăn trở: “Vấn đề thiếu nước tồn tại hàng chục năm rồi, không biết đến khi nào mới cải thiện được. Ðể đầu tư hệ thống nước kéo đến từng nhà thì cần nguồn kinh phí và đầu tư công trình lớn, công suất mạnh mới đẩy nước đi xa được. Thêm nữa, địa hình sông ngòi chằng chịt, người dân sống không tập trung làm ảnh hưởng đến việc đầu tư, xây dựng các công trình cấp nước”.

Vào mùa hạn, mỗi ngày đều xuất hiện cảnh người dân gồng gánh kéo nhau mang xô, bình, khạp, phuy, bồn… để lấy nước ở các trạm. Sau đó, họ phải chở nước về nhà bằng đường sông, đường bộ, vất vả bội phần. Có những trạm “đông ken”, họ phải chờ đợi để lấy nước hàng tiếng đồng hồ. Cách vài cây số mới có một trạm nước nên vào những ngày thời tiết nắng như đổ lửa thì hành trình tìm đến nước sạch lại càng vất vả. “Hàng tháng thì đổ đá mịn, thay hệ thống lọc thì nước mới đảm bảo chất lượng”, ông Huỳnh Văn Thương (người giữ và điều hành trạm nước), Ấp 17, xã Khánh Thuận, phân trần.

Một số hộ đồng bào dân tộc Khmer ở xã Khánh Thuận phải đầu tư lu, khạp để trữ nước trong mùa khô.

Cùng anh Tùng đi khảo sát thêm một số trạm nước, một số nơi trạm nước không còn hoạt động, giờ đã “cửa đóng then cài”. Chỉ tay vào trạm nước trước nhà, chị Lê Hồng Lê, xã Khánh Thuận, lắc đầu ngao ngán: “Hư mấy năm nay rồi có ai đến sửa đâu. Gia đình tôi sửa tạm để sử dụng". Anh Tùng tiếp lời: “Khi được đầu tư, hết thời hạn bảo hành thì trạm nước bắt đầu hư nhiều thứ lắm, giờ chỉ chờ đợi và khắc phục từ từ thôi, chứ biết làm sao”.

Trong 247 công trình cấp nước tập trung trên toàn tỉnh có 32 công trình hoạt động thiếu bền vững và 60 công trình không còn hoạt động. Ông Lê Công Nguyên, Phó giám đốc Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường tỉnh, cho biết: “Các công trình cấp nước tập trung hoạt động kém hiệu quả và ngừng hoạt động chủ yếu là các công trình có quy mô công suất nhỏ, được đầu tư nhiều năm trước, những công trình này chủ yếu do UBND cấp xã và cộng đồng quản lý. Ðây là các khu vực dân cư không tập trung, có điều kiện khó khăn về kinh tế - xã hội, nhận thức của người dân về nước sạch còn hạn chế, tiền nước thu được không đủ để bù đắp chi phí quản lý, vận hành và duy tu, bảo dưỡng công trình, dẫn đến công trình hoạt động kém hiệu quả, xuống cấp, hư hỏng, ngừng hoạt động tăng lên theo thời gian”. Ðây thật sự là bài toán khó cho ngành cấp nước tỉnh nhà trong mùa nắng hạn để đảm bảo đủ nước sạch cho người dân sử dụng.


Chính phủ ban hành Nghị định số 43/2022 quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng cấp nước sạch. Theo đó, trước mắt Sở NN&PTNT sẽ tham mưu UBND tỉnh rà soát hiện trạng tất cả công trình cấp nước nông thôn trên địa bàn tỉnh, phân loại công trình để lập phương án xử lý, đảm bảo tính khoa học, làm cơ sở cho việc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trước mắt và lâu dài cho lĩnh vực cấp nước sạch nông thôn.


 

Lam Khánh - Nhật Minh

Bài 2: HÀNH TRÌNH TÌM NƯỚC SẠCH

 

Đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc - Chính sách có, khó khâu nào?

Ðào tạo nghề, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn, lao động người dân tộc thiểu số (DTTS) để thoát nghèo, cải thiện toàn diện cuộc sống gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS là chủ trương, chính sách ưu việt, nhân văn của Ðảng, Nhà nước, được triển khai thực hiện bằng nhiều nguồn lực, đa dạng các hình thức hỗ trợ.

Ðiều động, luân chuyển cán bộ - “Luyện vàng, giũa ngọc” - Bài cuối: Ðúng quy định, sát thực tiễn

Công tác cán bộ là công việc hệ trọng của Ðảng ta, nhưng cũng là khâu khó, cần phải được tiến hành đúng mục đích, yêu cầu, nguyên tắc; trong tổ chức thực hiện đảm bảo quy trình chặt chẽ, dân chủ, công khai, minh bạch. Ðồng chí Nguyễn Tiến Hải, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HÐND tỉnh, khẳng định: “Ðối tượng, chức danh bố trí trong điều động, luân chuyển tại Cà Mau đảm bảo đúng Quy định số 65-QÐ/TW”.

Ðiều động, luân chuyển cán bộ - “Luyện vàng, giũa ngọc” - Bài 2: Khoá đào tạo đặc biệt

Quy định của Ðảng về thời gian luân chuyển, điều động cán bộ từ 3 năm trở lên. Ðây được coi là khoá đào tạo cán bộ đặc biệt, là môi trường “luyện vàng, giũa ngọc”, để lựa chọn những người đủ đức, đủ tài, ngang tầm với nhiệm vụ được giao phó. Bởi khi tiếp cận thực tiễn, sâu sát với đời sống Nhân dân, mỗi cán bộ sẽ tích luỹ, bồi tụ cho bản thân rất nhiều điều bổ ích; những bài học kinh nghiệm thiết thân, quý giá. Từ đó mang lại những giá trị cống hiến thực chất, thực sự cho Ðảng, cho Nhân dân.

Ðiều động, luân chuyển cán bộ - “Luyện vàng, giũa ngọc”

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, trọng yếu, thường xuyên, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Ðảng; tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Trong đó, xây dựng Ðảng về tổ chức, đặc biệt là công tác cán bộ, được Ðảng ta xác định là vấn đề “then chốt của then chốt”.

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài cuối: Chìa khoá mở rào

Ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo hiện nay được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững trên tất cả các lĩnh vực. Ðối với 2 ngành hàng chủ lực là con tôm và con cua, càng phải đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới, sáng tạo để tạo bước đột phá vượt qua khó khăn, tiến tới phát triển bền vững.

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài 2: Vào chặng đường "địa hình"

Vài năm gần đây, 2 ngành hàng chủ lực của tỉnh đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Ðường đua trên thị trường của tôm, cua Cà Mau đang bước vào chặng “vượt địa hình” do biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả của các quốc gia trong khu vực và quốc tế...

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực

Tôm, cua Cà Mau là 2 ngành hàng chủ lực nâng cao đời sống của đại bộ phận người dân trên địa bàn tỉnh, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của ngành thuỷ sản tỉnh nhà nói riêng, cả nước nói chung. Tuy nhiên, những năm gần đây, 2 mặt hàng này đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, cần có sự thay đổi nhanh, toàn diện để tạo đột phá và phát triển bền vững.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài cuối: Xứng đáng với vai trò, trọng trách

Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, chất lượng hoạt động của HÐND 3 cấp tại Cà Mau đã trở thành quyết tâm, xu thế để đại biểu dân cử, cơ quan dân cử xứng đáng với vai trò, trọng trách được cử tri tin tưởng trao gởi. HÐND các cấp của vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc đang ra sức phụng sự, phấn đấu, cống hiến vì mục tiêu xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 3: Tiếp xúc cử tri “đúng người, đúng việc, đúng vai”

Ông Nguyễn Tiến Hải, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HÐND tỉnh Cà Mau, từng rất trăn trở: “Tiếp xúc cử tri mà cán bộ nhiều hơn dân thì chưa đúng người, đúng việc, đúng vai. Tình trạng này phải chấn chỉnh ngay, phải để tiếp xúc cử tri là nơi thể hiện quyền làm chủ thật sự, thực chất của Nhân dân; để bà con cử tri đóng góp ý kiến, đề đạt tâm tư, nguyện vọng và hiến kế góp phần vào sự ổn định, phát triển chung của địa phương”.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 2: Giám sát có trọng tâm, trọng điểm

Giám sát là hoạt động quan trọng của HÐND các cấp, góp phần xác định vị thế, năng lực hoạt động của đại biểu dân cử, cơ quan dân cử, tạo dựng niềm tin và sự tín nhiệm đối với cử tri. Giám sát có trọng tâm, trọng điểm; đa dạng hình thức giám sát, được đo đếm bằng kết quả thực tế, sự đánh giá của cử tri chính là nỗ lực, mục tiêu mà các cấp HÐND tỉnh Cà Mau đang dồn sức thực hiện.