ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 22-11-24 18:40:37
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nan giải bài toán nước sạch

Báo Cà Mau (CMO) Với đặc thù 3 mặt giáp biển, Cà Mau không tiếp cận được nguồn nước mặt từ hệ thống sông Mê Kông, từ đó dẫn đến hiện tượng chủ yếu sử dụng nước ngầm 100% cho sinh hoạt. Tính đến hiện tại có 77,05% sử dụng giếng nước riêng lẻ hộ gia đình, 17,47% sử dụng nước cấp tập trung. Cần lắm giải pháp dẫn nước mặt từ hệ thống sông Mê Kông để cấp nước sinh hoạt cho bán đảo Cà Mau nhằm thay thế nguồn nước ngầm. Song song đó, việc bố trí hỗ trợ nguồn vốn để xây dựng hệ thống cấp nước tập trung, đạt chất lượng nước sạch ổn định và bền vững để thực hiện tiêu chí 17.1 trong xây dựng nông thôn mới cũng là vấn đề cấp thiết đang được đặt ra.

Bài 1: Khát nước mùa hạn

Cà Mau vào mùa khô hạn là lúc phải đối mặt với tình trạng thiếu nước. Những vùng nông thôn của huyện Trần Văn Thời, U Minh, Thới Bình... người dân đã và phải tập “quen” với chuyện “khát nước”.

Ðường ống nước không tới…

Ðến với khu vực Vườn Quốc gia U Minh Hạ (ấp Vồ Dơi, xã Trần Hợi, một phần xã Khánh Bình Ðông, huyện Trần Văn Thời và một phần xã Khánh An, huyện U Minh) sẽ bắt gặp khá nhiều hộ đến thời điểm này vẫn chưa tiếp cận được nguồn nước sạch. Họ phải từng ngày đối mặt với nỗi trăn trở thiếu nước sinh hoạt, nhất là mùa nắng hạn lại càng nan giải hơn.

Sử dụng nước "chia hơi" là nỗi ám ảnh của người dân ở Ấp Dồ dơi, xã Trần Hợi

Ông Nguyễn Hoàng Phong, quản lý trạm cấp nước, cho biết: “Nơi đây có 530 hộ đang sử dụng nước hợp vệ sinh của Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường tỉnh Cà Mau (nước đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia) và hàng trăm hộ không có nước để sử dụng. Ðặc điểm chung là khoan giếng không được, có hộ khoan 7 lần vẫn không đạt yêu cầu”.

Theo ông Trần Anh Phương, Phó trưởng phòng Cấp nước và Kế hoạch kỹ thuật, Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường tỉnh, lúc đầu thiết kế trạm nước này lên tới 450 m3/ngày đêm, phục vụ khoảng 300 hộ; nhưng do nhu cầu sử dụng cao nên đường ống thiết kế chưa đến những hộ dân lân cận. Trạm cấp nước nơi đây được bơm từ nguồn nước ngầm với hình thức khoan sâu nhưng trữ lượng nước không nhiều. “Ðến nay tỷ lệ hộ dân ở nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh từ các công trình cấp nước tập trung trong toàn tỉnh chỉ đạt 17,47% (theo tiêu chí xây dựng nông thôn mới phải đạt 40%)”, ông Phương trăn trở.

Mỗi buổi sáng hoặc trong giờ cao điểm đều xuất hiện tình trạng nước chảy yếu, đặc biệt là khu vực cuối đường ống. Theo ông Nguyễn Hoàng Phong, tuyến đường ống nước không dẫn đến được hộ dân khoảng 5 cây số (khoảng 200 hộ). Một số hộ đầu tư công sức, tiền của để khoan giếng nước ngầm nhưng vị nước hơi mặn, không đảm bảo vệ sinh nhưng buộc phải sử dụng.

Bà Huỳnh Thị Hơn (80 tuổi), ấp Minh Hà B, xã Khánh Bình Ðông, huyện Trần Văn Thời, cho biết, xưa tới giờ chỉ đi đổi nước để sử dụng vào mùa khô. Gia đình đã khoan giếng 7 lần không thành công, bấm bụng khoan thêm lần thứ 8 thì chất lượng nước không thể tệ hơn. Ở đây bà con không cần "cứu đói" mà chỉ cần "cứu khát”.

Khảo sát thêm một số hộ khác sẽ phát hiện tình trạng sử dụng nước “chia hơi”. Nghĩa là nước sạch được truyền từ nhà phía bên kia sông qua những hộ dân đối diện, sau đó được nối bằng ống nước nhỏ (ống 21), vậy là phục vụ được gần cả chục hộ sinh hoạt; nhà này nối với nhà kia để sử dụng nước. “Do điều kiện nước đi xa quá nên giảm áp, đặc biệt giờ cao điểm thì nước chảy rất yếu”, ông Phong trần tình.

Bà Trần Thị Út, xã Khánh Bình Đông luôn ước ao có đường ống tới nhà, không phải sử dụng nước "chia hơi" nữa.

Song song đó, một số hộ dân khu vực còn vất vả hơn khi phải sử dụng nước vuông tôm (tức là nước mặn) lên để rửa chén, sinh hoạt… Tiếp đến, họ mới xả lại nước ngọt tiết kiệm từ nước vo gạo. Xót xa nhất là trẻ em tại khu vực này hầu như phải tắm nước sông, nước vuông, rồi mới chắt chiu từng giọt nước ngọt để tắm lại.

Ông Từ Thanh Tùng, Trưởng ấp Minh Hà B, xã Khánh Bình Ðông, chia sẻ: “Riêng ấp hiện có 160 hộ nhưng đã có 59 hộ thiếu nước. Dân ở đây trữ nước mưa và mua nước bình để sử dụng. Trước đây có nhiều nhà nghiên cứu địa chất đến đây để lấy mẫu nước nhưng đến giờ vẫn biệt tăm. Mong muốn lớn nhất của tôi cũng như những hộ dân khác là có nguồn nước sạch để sử dụng trong sinh hoạt, sản xuất”.

Nguồn nước sạch khan hiếm tại ấp Minh Hà B, xã Khánh Bình Đông, huyện Trần Văn Thời.

… Nhiều trạm nước xuống cấp

Tỉnh Cà Mau có 247 công trình nước sạch tập trung, có công suất 18.000 m3/ngày đêm. Thế nhưng, tình trạng thiếu nước sinh hoạt còn diễn ra thời gian rất lâu ở nhiều địa phương. Tiêu biểu như ở xã Khánh Thuận, huyện U Minh.

Anh Ðỗ Thanh Tùng, phụ trách nước sạch, UBND xã Khánh Thuận, cho biết: “Hiện nay địa phương đang quản lý 3 trạm bơm lớn (do Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường tỉnh Cà Mau đầu tư xây dựng) và 4 trạm bơm nhỏ có trang bị hệ thống lọc, cung cấp khoảng 600 lít nước mỗi ngày/trạm”.

Ở các Ấp 12, 16, 17, 19, 20, 21 khoan cây nước không được. Nguồn nước bị nhiễm mặn dẫn đến việc bà con nơi đây phải trữ nước mưa trong lu, khạp để sử dụng hàng ngày; có khoảng 800 hộ dân thiếu nước. Thời gian qua, nhờ các mạnh thường quân, nhà hảo tâm hỗ trợ, địa phương đã xây dựng được các trạm lọc nước cho bà con, tuy nhiên hiện nhiều trạm nước bị hư hỏng. Do kinh phí sửa chữa, bảo trì lớn, trong khi địa phương không có nguồn nên một số trạm nước không hoạt động, người dân phải đi các trạm lân cận để chở nước về sử dụng.

Bà con xã Khánh Thuận đến các trạm nước chở nước về nhà để sinh hoạt.

Ông Phạm Quốc Thiện, Phó chủ tịch UBND xã Khánh Thuận, trăn trở: “Vấn đề thiếu nước tồn tại hàng chục năm rồi, không biết đến khi nào mới cải thiện được. Ðể đầu tư hệ thống nước kéo đến từng nhà thì cần nguồn kinh phí và đầu tư công trình lớn, công suất mạnh mới đẩy nước đi xa được. Thêm nữa, địa hình sông ngòi chằng chịt, người dân sống không tập trung làm ảnh hưởng đến việc đầu tư, xây dựng các công trình cấp nước”.

Vào mùa hạn, mỗi ngày đều xuất hiện cảnh người dân gồng gánh kéo nhau mang xô, bình, khạp, phuy, bồn… để lấy nước ở các trạm. Sau đó, họ phải chở nước về nhà bằng đường sông, đường bộ, vất vả bội phần. Có những trạm “đông ken”, họ phải chờ đợi để lấy nước hàng tiếng đồng hồ. Cách vài cây số mới có một trạm nước nên vào những ngày thời tiết nắng như đổ lửa thì hành trình tìm đến nước sạch lại càng vất vả. “Hàng tháng thì đổ đá mịn, thay hệ thống lọc thì nước mới đảm bảo chất lượng”, ông Huỳnh Văn Thương (người giữ và điều hành trạm nước), Ấp 17, xã Khánh Thuận, phân trần.

Một số hộ đồng bào dân tộc Khmer ở xã Khánh Thuận phải đầu tư lu, khạp để trữ nước trong mùa khô.

Cùng anh Tùng đi khảo sát thêm một số trạm nước, một số nơi trạm nước không còn hoạt động, giờ đã “cửa đóng then cài”. Chỉ tay vào trạm nước trước nhà, chị Lê Hồng Lê, xã Khánh Thuận, lắc đầu ngao ngán: “Hư mấy năm nay rồi có ai đến sửa đâu. Gia đình tôi sửa tạm để sử dụng". Anh Tùng tiếp lời: “Khi được đầu tư, hết thời hạn bảo hành thì trạm nước bắt đầu hư nhiều thứ lắm, giờ chỉ chờ đợi và khắc phục từ từ thôi, chứ biết làm sao”.

Trong 247 công trình cấp nước tập trung trên toàn tỉnh có 32 công trình hoạt động thiếu bền vững và 60 công trình không còn hoạt động. Ông Lê Công Nguyên, Phó giám đốc Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường tỉnh, cho biết: “Các công trình cấp nước tập trung hoạt động kém hiệu quả và ngừng hoạt động chủ yếu là các công trình có quy mô công suất nhỏ, được đầu tư nhiều năm trước, những công trình này chủ yếu do UBND cấp xã và cộng đồng quản lý. Ðây là các khu vực dân cư không tập trung, có điều kiện khó khăn về kinh tế - xã hội, nhận thức của người dân về nước sạch còn hạn chế, tiền nước thu được không đủ để bù đắp chi phí quản lý, vận hành và duy tu, bảo dưỡng công trình, dẫn đến công trình hoạt động kém hiệu quả, xuống cấp, hư hỏng, ngừng hoạt động tăng lên theo thời gian”. Ðây thật sự là bài toán khó cho ngành cấp nước tỉnh nhà trong mùa nắng hạn để đảm bảo đủ nước sạch cho người dân sử dụng.


Chính phủ ban hành Nghị định số 43/2022 quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng cấp nước sạch. Theo đó, trước mắt Sở NN&PTNT sẽ tham mưu UBND tỉnh rà soát hiện trạng tất cả công trình cấp nước nông thôn trên địa bàn tỉnh, phân loại công trình để lập phương án xử lý, đảm bảo tính khoa học, làm cơ sở cho việc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trước mắt và lâu dài cho lĩnh vực cấp nước sạch nông thôn.


 

Lam Khánh - Nhật Minh

Bài 2: HÀNH TRÌNH TÌM NƯỚC SẠCH

 

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài cuối: Thầm lặng việc thiện nguyện

Gương mặt đôn hậu, nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi là điều dễ tạo thiện cảm với bất cứ ai khi gặp cô Phạm Thị Ngọc Thảo, giáo viên Trường Tiểu học Phường 6/2, TP Cà Mau. Nhiều năm duy trì “Tủ bánh mì yêu thương”, lặng thầm trao hàng trăm món quà thiết thực tới những hoàn cảnh kém may mắn, cô Thảo cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sẻ chia.

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài 2: Người gieo hạnh phúc

Mỗi ngày trôi qua, trên khắp quê hương Cà Mau xuất hiện nhiều tấm gương bình dị mà cao quý. Ðó là câu chuyện của người phụ nữ vượt qua nỗi đau của bản thân để dìu dắt những người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, là câu chuyện của những cựu chiến binh giàu nghĩa cử cao đẹp... Họ thầm lặng đóng góp cho đời, gieo hạt giống yêu thương, điểm tô cho cuộc sống thêm những gam màu tươi sáng.

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.