Hơn ba mươi năm xa quê cũng là ngần ấy năm tôi bị cuốn theo cơn lốc cơm áo gạo tiền, không còn thời gian cho riêng mình. Vậy mà ngộ, có những thứ tưởng chừng như dễ quên nhất thì trong lòng lại nhớ hoài, nhớ tới thắt ruột thắt gan mà không cách nào lý giải được. Ðó là những buổi sáng đi chợ ở quê với má.
Hơn ba mươi năm xa quê cũng là ngần ấy năm tôi bị cuốn theo cơn lốc cơm áo gạo tiền, không còn thời gian cho riêng mình. Vậy mà ngộ, có những thứ tưởng chừng như dễ quên nhất thì trong lòng lại nhớ hoài, nhớ tới thắt ruột thắt gan mà không cách nào lý giải được. Ðó là những buổi sáng đi chợ ở quê với má.
Chợ ở đây không ồn ào với những câu chào mời, hay ngả giá như những chợ ở nơi thành thị. Những người đến đây chủ yếu chỉ trao đổi vài thứ mình có từ khu vườn nhà, hay trao nhau những câu thăm hỏi về mùa màng, thời vụ... Khi nắng lên thì chợ cũng tan. Cách bày trí và hàng hoá của chợ quê cũng lạ hơn, người ta chỉ dùng xịa hay rổ, thúng để trưng bày hàng hoá của mình với những mặt hàng quen thuộc như: bình bát, hẹ nước, năn, bồn bồn, rau dừa, trái giác, rau má, rau đắng đất… và buộc lại từng lọn (bó) nhỏ trông rất đẹp mắt.
Minh hoạ: Khởi Huỳnh |
Tôi thích được theo má những buổi chợ Tết hơn vì những ngày này chợ rất đông và hàng hoá cũng phong phú hơn. Các ghe từ các tỉnh về bán đủ các mặt hàng để dùng trong mấy ngày Tết. Nào là bắp cải, củ hành tím, hoa vải, quần áo may sẵn… có khi còn có cả đoàn Sơn Ðông mãi võ. Thú vị nhất ở chợ này, người bán thường là người lớn tuổi hoặc là trẻ em, ít khi thấy những người tuổi trung niên vì họ phải ra đồng hết.
Mấy năm gần đây tôi phát hiện ra gần nơi mình ở có một cái chợ mà thoạt nhìn nó gần giống chợ ở quê tôi. Và nó đã làm tôi thay đổi ít nhiều. Nói thật, dù thỉnh thoảng tôi mới mua vài món ở đây nhưng ngày hai buổi tôi vẫn đến đây chủ yếu chỉ để nhìn ngắm những bó rau từ vườn nhà, con cá sặt bắt từ bờ ao… để đỡ nhớ quê.
Có lẽ ấn tượng nhất với tôi là cụ già bán bông súng, dáng người khắc khổ, đôi bàn tay gân guốc, những móng tay bị phèn bám lâu năm. Cụ già là một “thế mạnh” của khu chợ này, như một “biểu tượng” bền bĩ cho sự dễ thích nghi của chợ quê, cho dù ngay ở giữa lòng đô thị.
Mỗi lần nhìn thấy ông là trong lòng tôi lại nao nao nhớ về con sông trước nhà mình. Một con sông đầy bông súng, quanh năm bông trổ trắng mặt sông. Ngày đó, con sông ấy cũng chẳng có gì đặc biệt hơn các con sông khác ở vùng sông nước. Nhưng với tôi nó là một nhân chứng, người bạn trung thành. Sông và tôi có vô vàn kỷ niệm buồn, vui suốt thời thơ ấu.
Má tôi kể, khi má về làm dâu thì con sông này bông súng đã mọc đầy sông. Trước nhà tôi là khúc sông nhỏ, hai bên bờ là hàng bần già mát rượi. Gió chướng về bông bần rụng trắng mặt sông; bầy cá rô đua nhau đớp mồi làm mặt nước lúc nào cũng sôi động. Buổi trưa nước trong veo, phía gần bờ nhìn thấy tận đáy sông, nhìn rõ cả bầy tép trấu thong dong lội thành đàn.
Thường mấy cô thiếu nữ chèo xuồng đến đoạn sông này thì không chèo nữa. Xuồng được thả trôi. Các cô đặt nón lá xuống, xoã tóc ra hất hất vài cái rồi lấy cây kẹp bồ câu kẹp lên làm duyên. Thấy lạ, tôi hỏi ba: “Sao cô nào chèo tới đây cũng không chèo nữa mà thả trôi, mà còn xoã tóc, và làm điệu hết vậy?”. Ba vừa nói vừa cười đầy vẻ tự tin: “Tại mấy cô biết khúc sông nầy có ba!”. Ba đâu hay má ngồi gần đó, nên lãnh trọn mấy cái nhéo vào hông đau điếng…
Tôi cứ thắc mắc hoài không biết vì sao má lại nhéo ba đau đến vậy. Chiều đó, má giận ba không thèm ăn cơm, cứ ra ngoài hè ngồi hoài. Ba ra hỏi han, má cũng không chịu nói. Lát sau má vừa đi vừa nói: “Tui đâu có cây kẹp bồ câu đâu mà ông ra đây làm gì?”. Ba bật cười: “Tui giỡn chơi chút xíu thôi mà, nếu má thằng An không thích thì tui thề mai mốt không nói nữa”.
Sau này, tôi mới hiểu chuyện cây kẹp bồ câu mà má nói. Ngày xưa cây kẹp tóc có hình bồ câu là mắc lắm, nếu tính ra lúa thì phải mấy giạ nên chỉ những cô gái giàu có mới mua nổi mà thôi.
Nhà tôi nằm ngay ngã ba sông, thường ai đi ngang qua cũng buột miệng khen vì khung cảnh đẹp. Buổi sáng những người trong xóm ra đây quăng chài thả lưới, sông lúc nào cũng rộn rã tiếng cười vui. Khi chiều dần buông, là cảnh sinh hoạt của cánh thương hồ ngay ở bến sông. Chuyện làng, chuyện xóm, chuyện quê hương ở đâu đó được họ nhắc với nhau nghe cứ rưng rưng thương nhớ.
Ngày ấy, chúng tôi ngoài giờ đi học ở trường làng về thì chẳng có niềm vui nào ngoài chuyện đi mót lúa, bắt cua, bắt ốc ngoài đồng hay bẻ ổi những khu vườn trong xóm. Chán thì kéo nhau chạy ra ngã ba sông mà lặn ngụp thoả thích. Nơi ngã ba sông ấy, người ta có bắc một cây cầu khỉ nối liền qua ba bờ sông để tiện cho việc đi lại của người dân nơi đây. Hình dáng nó giống như chữ y, nên những người ở đây đặt cho nó luôn cái tên rất kêu là cầu Chữ Y. Cũng ở chiếc cầu này, đã có biết bao kỷ niệm của tụi con nít chúng tôi.
Hình như trong mỗi cành cây, mỗi cọng cỏ nơi bến sông ngày ấy đều đã giữ một câu chuyện về thời còn cởi truồng tắm sông của nhiều đứa trẻ trong xóm. Bây giờ, thỉnh thoảng khi gặp nhau qua điện thoại, có đứa lại hỏi thăm về cái bến sông xưa, về cây bần lão, về cây cầu Chữ Y…
Biết trả lời làm sao, vì trăm năm bãi bể còn hoá nương dâu thì nói gì đến một cái bến sông, giờ chắc đã trôi vào đâu đó trong ngút ngàn ký ức./.
Tạp văn của Khởi Huỳnh