ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 23-11-24 12:42:28
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ngành tôm Cà Mau - Phát triển chưa tương xứng với tiềm năng - Bài 2: Mở rộng quy mô - nhu cầu và giải pháp

Báo Cà Mau (CMO) “Quy hoạch và quy hoạch lại cả chuỗi giá trị tôm theo hướng thuận thiên, bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu theo hướng kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh trên nền tảng số. Liên kết chuỗi giá trị tôm đảm bảo lợi nhuận tốt và bền vững cho mọi đối tác tham gia chuỗi giá trị tôm, người nông dân làm giàu được trên mảnh đất của mình”, ông Lê Văn Quang, Chủ tịch Tập đoàn Thuỷ sản Minh Phú khẳng định như thế khi nói về việc quy hoạch ngành tôm của tỉnh. Ðây cũng là vấn đề UBND tỉnh, ngành chức năng tỉnh quan tâm thời gian qua.

Xây dựng nền tảng

Giống là yếu tố quan trọng quyết định thành công trong nuôi tôm thương phẩm, nhưng hiện tại tỉnh chưa chủ động về số lượng, chất lượng tôm nước lợ bố mẹ, còn phụ thuộc vào khai thác tự nhiên và nhập khẩu. Vấn đề này, Cà Mau đã bắt đầu có sự quan tâm đúng mức.

Ông Trình Trung Phi, Giám đốc Kỹ thuật, Tập đoàn Việt Úc, nhận xét: “Sự phụ thuộc vào tôm bố mẹ khai thác từ tự nhiên (trên 80%) là hạn chế lớn trong việc chủ động sản xuất và cung ứng nguồn tôm sú giống chất lượng cao, sạch bệnh cho thị trường. Theo kết quả phân tích mầm bệnh nguồn tôm bố mẹ tự nhiên từ nguồn Rạch Gốc, từ cuối năm 2017 đến hết năm 2018, chỉ có 15,17-32,29% tôm bố mẹ sạch mầm bệnh MBV. Ðây được xem là mầm bệnh có thể ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ sống và tăng trưởng của tôm sú nuôi. Cho dù chúng ta đã có nguồn tôm bố mẹ sạch bệnh, nhưng nếu nguồn thức ăn tươi không đảm bảo sạch bệnh cũng là nguồn lây nhiễm cho tôm bố mẹ”.

Khó khăn trên cũng được ông Nguyễn Văn Trung, Chi cục phó Chi cục Thuỷ sản, thừa nhận: “Tôm bố mẹ phụ thuộc vào nguồn khai thác từ tự nhiên và nhập khẩu, chưa chủ động trong sản xuất. Việc cung cấp giống nhu cầu trong tỉnh mới đáp ứng trên 50%, vẫn còn số lượng lớn tôm giống nhập từ các tỉnh Nam Trung Bộ không có nguồn gốc, chưa qua kiểm dịch”.

Ðể chủ động nguồn giống, Nhà nước cần hỗ trợ triển khai chương trình chọn giống tôm sú thành công để từng bước chủ động nguồn tôm sú bố mẹ sạch bệnh, tăng trưởng nhanh, đáp ứng nhu cầu giống của địa phương và khu vực. Các cơ quan quản lý Nhà nước nên có sự phối hợp chặt chẽ để kiểm tra, giám sát, đảm bảo tính minh bạch của chương trình cũng như các sản phẩm tôm giống được tạo ra, đáp ứng nhu cầu cao của thị trường.

Ông Lê Văn Quang, Chủ tịch Tập đoàn Thuỷ sản Minh Phú, nhận xét: “Việc chưa chủ động sản xuất tôm bố mẹ và thiếu tôm giống chất lượng, sạch các tác nhân gây bệnh nguy hiểm thường gặp trên tôm nuôi là hạn chế lớn nhất đối với sự phát triển bền vững nghề nuôi tôm ở Việt Nam. Nguồn tôm sú bố mẹ chủ yếu bắt từ tự nhiên và một phần từ chọn giống ở nước ngoài, về lâu dài ảnh hưởng đến nguồn lợi, tính đa dạng sinh học và nguy cơ lây truyền mầm bệnh. Trong khi đó, tôm thẻ lệ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu từ Mỹ, Singapore, Indonesia, Thái Lan... Việc nguồn tôm bố mẹ phần lớn phụ thuộc vào nhập khẩu dẫn đến giá tôm bố mẹ cao, giá con giống sản xuất đắt, không chủ động thời gian sản xuất, không kiểm soát được chất lượng tôm bố mẹ”.

Muốn chủ động đầu tư phát triển nguồn giống, trước hết cần có kết cấu hạ tầng đồng bộ.

“Các vùng sản xuất giống và trại sản xuất giống được đầu tư đã lâu, không bài bản; hàng năm, các trại được nâng cấp cải tạo nhưng chắp vá, không đồng bộ. Do đó, hạ tầng sản xuất giống chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất. Hệ thống cấp thoát nước cho các vùng nuôi chủ yếu vẫn dùng chung với hệ thống thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, không phù hợp với yêu cầu kỹ thuật nuôi, dễ xảy ra dịch bệnh”, ông Lê Văn Quang đánh giá.

Chế biến là công đoạn cuối cùng trong chuỗi sản xuất của ngành tôm nước lợ, góp phần nâng cao giá trị tôm nuôi nước lợ trước khi đưa sản phẩm ra thị trường tiêu thụ. Những sản phẩm tôm nước lợ chế biến không những phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa mà còn được xuất khẩu, mang về nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Mặc dù không nằm trong khu vực nguyên liệu trọng điểm của tôm thẻ chân trắng, nhưng kim ngạch xuất khẩu tôm của Cà Mau hàng năm đạt gần 1 tỷ USD và chiếm gần 30% giá trị kim ngạch xuất khẩu tôm cả nước. Thế nhưng, tiềm năng của ngành tôm Cà Mau còn lớn hơn nếu đầu tư hiệu quả, khắc phục kịp thời những hạn chế đã và đang vướng.

Dây chuyền chế biến tôm xuất khẩu của Công ty Cổ phần Tập đoàn Thuỷ sản Minh Phú.

Ngành chế biến thuỷ hải sản hiện nay phát triển thành một trong những ngành kinh tế quan trọng, với quy mô sản xuất hàng hoá lớn, đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế. Với sự tăng trưởng nhanh và hiệu quả, chế biến thuỷ sản đóng góp tích cực trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đóng góp hiệu quả cho công cuộc giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống cho cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản phải đối mặt với những rào cản kỹ thuật ngày càng khắt khe về an toàn vệ sinh thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, các yếu tố phát triển bền vững.

Việc xây dựng các vùng nguyên liệu tôm sinh thái, tôm hữu cơ tại Cà Mau sẽ là cơ hội xây dựng thương hiệu tôm trên toàn thế giới, nếu thành công sẽ là cơ hội cho các nhà thu mua tập trung về đây.

 Cần giải pháp phù hợp

Cà Mau đặt mục tiêu phát triển ngành tôm trở thành trung tâm lớn nhất vùng ÐBSCL và cả nước, với mô hình tổ chức sản xuất phù hợp, áp dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất, sản lượng, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm tôm Cà Mau, đồng thời thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường sinh thái; mang lại lợi ích cho người dân, doanh nghiệp, nền kinh tế của tỉnh và cả nước. Cà Mau phấn đấu đến năm 2025, tổng diện tích nuôi tôm 280.000 ha, trong đó tôm càng xanh 20.000 ha. Sản xuất tôm giống đảm bảo chất lượng, đáp ứng trên 70% nhu cầu nuôi của tỉnh, sản xuất thức ăn trong tỉnh đáp ứng đủ nhu cầu và sản xuất các loại vật tư khác đáp ứng 30% nhu cầu. Giá trị kim ngạch xuất khẩu 1,4 tỷ USD.

Nhưng để đạt mục tiêu trên, cần thay đổi tư duy nuôi tôm theo kiểu truyền thống của người dân hiện nay. Theo đó, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức sản xuất theo hướng liên kết chuỗi, từ cung ứng vật tư đầu vào đến tiêu thụ sản phẩm; thường xuyên rà soát tình hình hoạt động liên kết để kịp thời phát hiện và hỗ trợ tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, hoàn thiện các mô hình liên kết chuỗi giá trị trong nuôi tôm để nhân rộng.

Ông Lê Văn Quang cho biết: “Thực tế, khách hàng muốn ký hợp đồng rất nhiều nhưng doanh nghiệp không dám, chỉ dám ký khoảng 50-70% công suất nhà máy. Doanh nghiệp không lo không bán được hàng, chỉ lo không chế biến được. Nhu cầu thị trường đang tăng, đặc biệt thị trường Mỹ có nhu cầu tôm cỡ lớn rất mạnh. Bà con cần thu hoạch chậm nhất trong tháng 11, kịp chế biến bán cho thị trường châu Âu cuối năm. Do đó, người dân nên giảm mật độ nuôi để nuôi tôm cỡ lớn. Tôm cỡ lớn (10-30 con/kg) hiện bán được giá tốt và thị trường có nhu cầu cao. Thời gian chế biến 3 kg tôm lớn bằng 1 kg tôm nhỏ”.

Không chỉ nuôi với mật độ dày, thu hoạch không đúng thời điểm làm giảm giá trị mà sản lượng nuôi hiện nay vẫn thấp so với mặt bằng chung nhiều nước.

Ông Lê Văn Quang cho biết: “Ecuado chỉ có 250.000 ha nuôi tôm nhưng sản lượng tương đương với Việt Nam 800.000 ha, với giá thành chỉ bằng 1/2-1/3. Nguyên nhân là ngành tôm của họ được tiếp cận theo hướng thích nghi - kháng bệnh - vừa sức tải của môi trường. Gần 25 năm, họ chọn lọc tự nhiên nên có được quần thể tôm bố mẹ thích nghi với môi trường, kháng bệnh, để đến nay tôm nuôi của họ đạt tỷ lệ sống trên 90%. Còn nhìn sang Ấn Ðộ, giá thành tôm nuôi của họ thấp hơn Việt Nam từ 20-30% là bởi họ có đất rộng, thả mật độ thấp, 30-60 con/m2, nên môi trường ít bị ô nhiễm, tỷ lệ sống cao hơn”.

Lợi thể để Việt Nam có giá thành tôm nuôi cao nhưng vẫn xuất khẩu tốt được nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đánh giá là nhờ công nghệ chế biến tôm đứng đầu thế giới với nhiều mặt hàng giá trị gia tăng, hàng cao cấp và hàng ăn liền. Thế nhưng, lợi thế này dần không còn trong 3-5 năm nữa. Nếu không có giải pháp hữu hiệu thì chỉ khoảng 5-10 năm nữa ngành tôm Việt Nam sẽ không thể cạnh tranh và đi xuống.

Ông Lê Văn Quang đánh giá: “Dịch Covid-19 vừa qua, Ecuado không bán tôm nguyên con được sang Trung Quốc, trong khi từ năm 2020 trở về trước, họ sản xuất 80% là tôm nguyên con, còn lại tôm vỏ và một ít tôm thịt. Họ chuyển sang sản xuất tôm PTO (lột vỏ còn đuôi), PD (tôm thịt lột vỏ bỏ đuôi) và hàng giá trị gia tăng (GTGT), với các chính sách hỗ trợ vốn đầu tư của Chính phủ. Kết quả, năm 2021 họ đã nâng lên được 30% hàng PTO, PD và gần 10% hàng GTGT. Các doanh nghiệp sản xuất máy móc thiết bị của Việt Nam đang lấy công nghệ sản xuất hàng GTGT của các nhà máy chế biến tôm bán sang Ấn Ðộ. Và thế là hàng GTGT của Ấn Ðộ gia tăng đáng báo động”.

Ðứng trước thực trạng trên, ngành tôm Việt Nam nói chung và Cà Mau nói riêng cần làm gì để tồn tại và phát triển? Câu trả lời được các nhà hoạch định chính sách, nhà khoa học, doanh nghiệp tại Diễn đàn tôm Việt 2021 khẳng định là quy hoạch và quy hoạch lại cả chuỗi giá trị tôm theo hướng thuận thiên, bền vững, thích ứng biến đối khí hậu theo hướng kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh trên nền tảng số. Liên kết chuỗi giá trị tôm đảm bảo lợi nhuận tốt và bền vững cho mọi đối tác tham gia chuỗi giá trị tôm, người nông dân làm giàu được trên mảnh đất của mình.

Ðể quy hoạch ngành tôm hiệu quả, ông Lê Văn Quang nêu quan điểm: “Công tác quy hoạch nên tập trung vào những nội dung chính là: Quy hoạch vùng nuôi tôm - rừng ngập mặn kết hợp với phát triển nuôi thuỷ sản dưới tán rừng ngập mặn (nuôi tôm, cua, cá, nhuyễn thể), gắn bảo vệ và phát  triển rừng, bảo vệ môi trường sinh thái, tạo ra sản phẩm thuỷ sản có chất lượng cao, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân. Quy hoạch một số vùng có lợi thế về nguồn nước, cấp thoát tốt, độ mặn cao thành các vùng nuôi tôm thâm canh và siêu thâm canh công nghệ cao, áp dụng công nghệ IoT và AI để tăng năng suất, hiệu quả. Về vùng nuôi tôm quảng canh, quảng canh cải tiến, cần xây dựng hình thức nuôi an toàn sinh học, hữu cơ để tạo ra vành đai an toàn sinh học bảo vệ tôm không bị nhiễm bệnh, đạt lỷ lệ sống cao và lợi nhuận tốt. Ðồng thời, cần quy hoạch những khu chế biến tôm, công nghiệp phụ trợ tập trung, gắn với khu đô thị thuỷ sản nằm ở trung tâm và gần vùng nguyên liệu...”./.

 

Ðặng Duẩn

 

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài cuối: Thầm lặng việc thiện nguyện

Gương mặt đôn hậu, nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi là điều dễ tạo thiện cảm với bất cứ ai khi gặp cô Phạm Thị Ngọc Thảo, giáo viên Trường Tiểu học Phường 6/2, TP Cà Mau. Nhiều năm duy trì “Tủ bánh mì yêu thương”, lặng thầm trao hàng trăm món quà thiết thực tới những hoàn cảnh kém may mắn, cô Thảo cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sẻ chia.

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài 2: Người gieo hạnh phúc

Mỗi ngày trôi qua, trên khắp quê hương Cà Mau xuất hiện nhiều tấm gương bình dị mà cao quý. Ðó là câu chuyện của người phụ nữ vượt qua nỗi đau của bản thân để dìu dắt những người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, là câu chuyện của những cựu chiến binh giàu nghĩa cử cao đẹp... Họ thầm lặng đóng góp cho đời, gieo hạt giống yêu thương, điểm tô cho cuộc sống thêm những gam màu tươi sáng.

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.