Tìm hiểu và thưởng thức những loại hình nghệ thuật dân gian gắn với loại hình du lịch điền dã, miệt vườn đang là nhu cầu của du khách trong và ngoài nước hiện nay. Bên cạnh đờn ca tài tử Nam bộ - một di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại đã và đang được nhiều địa phương Nam bộ phát huy giá trị ở góc độ du lịch, thì nghệ thuật Dù kê của đồng bào Khmer cũng là một thế mạnh khác của ngành “công nghiệp không khói” nơi đây.
Những tiềm năng
Theo tài liệu nghiên cứu, Dù kê xuất hiện ở Nam bộ chưa đến 100 năm, ra đời trên vùng ĐBSCL và gắn bó với đời sống lao động thường ngày của người Khmer. Vì là một loại hình nghệ thuật “sinh sau đẻ muộn”, nên ít nhiều Dù kê chịu ảnh hưởng không chỉ từ nghệ thuật Rô băm của dân tộc Khmer mà còn từ hát Tiều, hát Quảng, hát Bộ, cải lương…
Trong sách Người Khmer Cửu Long (1987), tác giả Huỳnh Ngọc Trảng cho rằng, Dù kê thể hiện các đề tài sau đây: Những kịch bản dựa theo các truyện thơ cổ chiếm tỷ trọng lớn nhất, đa số thường có nội dung xoay quanh những mâu thuẫn ở cung đình và mô-típ “đánh chằn cứu người”; những kịch bản dựa vào truyện cổ tích; những chuyện rút ra từ Phật thoại; loại cuối cùng là những tuồng tích của người Việt, người Hoa… Theo Đặng Vũ Thị Thảo trong Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam bộ (1988) nội dung các tuồng tích Dù kê còn được rút ra từ áng hùng ca Ấn Độ Raymayana…
Đặt trong bối cảnh chung của du lịch Đông Nam Á, các nhà nghiên cứu chuyên môn về du lịch đã phát hiện ra tiềm năng tiềm tàng của nghệ thuật Dù kê. Ở Thái Lan, Malaysia, Indonesia… người ta đã biết chú trọng khai thác nguồn tài nguyên văn hóa dân gian phục vụ du lịch, điển hình có thể nêu kịch diễn Truyền thuyết về vương quốc Thái Lan, hay ở Indonesia với kịch múa Barong…
![]() |
Biểu diễn Dù kê trong khuôn viên chùa Khmer, một gợi mở cho việc đưa loại hình nghệ thuật này phục vụ du lịch. Ảnh: C.T |
Gợi ý về giải pháp
Về địa điểm, ĐBSCL có lợi thế là các ngôi chùa Khmer với khuôn viên rộng, đây là những địa điểm lý tưởng để xây dựng sân khấu cố định (một đòi hỏi bắt buộc của du lịch), đây lại là nơi sinh hoạt cộng đồng của đồng bào dân tộc Khmer nên sẽ đáp ứng nhu cầu của du khách khi tìm hiểu về văn hóa, sinh hoạt của người dân bản địa.
Về thời gian, thử nghiệm ban đầu có thể mỗi tuần xây dựng một trích đoạn hay, nhưng không quá kéo dài vì thời gian của du khách trong hành trình tua du lịch không nhiều. Đó có thể là những trích đoạn Nàng Xê-Đa, Thạch Sanh chém chằn… Về kinh phí tổ chưc vở diễn, vì đây cũng là vấn đề bảo tồn di sản nên ban đầu Nhà nước phải tài trợ kinh phí. Sau đó, nếu mô hình này phục vụ du lịch có hiệu quả thì lấy thu bù chi để cắt giảm sự hỗ trợ của Nhà nước. Gợi ý nữa là giá vé, khách du lịch gồm du khách trong nước và du khách nước ngoài, điều này đặt ra cho những nhà làm du lịch phải biết tính toán mức vé có thể chấp nhận được!
Nhắc lại một thực tế là tín hiệu vui: khách du lịch hiện nay thường có nhu cầu tìm hiểu văn hóa của 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam. Điều này khiến văn hóa tộc người Khmer Nam bộ càng có lực hấp dẫn du khách khi xuôi về ĐBSCL. Nếu loại hình nghệ thuật Dù kê sớm được xây dựng trở thành một sản phẩm du lịch mới thì ĐBSCL nói chung, từng địa phương nói riêng sẽ có thêm một sản phẩm du lịch độc đáo. Du khách đến với du lịch ĐBSCL và các tỉnh có đông dân tộc Khmer sinh sống sẽ không chỉ tham quan nét đẹp cổ kính với kiến trúc độc đáo của những ngôi chùa Khmer, mà còn được tìm hiểu sâu hơn về văn hóa của một tộc người thể hiện đậm nét qua loại hình nghệ thuật Dù kê - một di sản văn hóa Khmer Nam bộ đang trong tiến trình trở thành di sản văn hóa của nhân loại trong tương lai!
QUỲNH ANH