Nghị quyết 26/NQ-TW, ngày 5/8/2008 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp - nông dân - nông thôn (gọi tắt là Nghị quyết “tam nông”) đã đi sâu vào đời sống nông dân. Dưới góc nhìn của xã hội, “tam nông” Bạc Liêu từng bước đổi thay toàn diện bằng nhiều chính sách trọng tâm của Đảng, Nhà nước.
![]() |
Huyện Hòa Bình từng bước cơ giới hóa nông nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất. Ảnh: T.Đ |
Khơi dậy sức sản xuất
Nhìn vào kết quả huy động, sử dụng nguồn lực đầu tư của Sở NN&PTNT tổng hợp sau 5 năm thực hiện Nghị quyết “tam nông”, nhiều con số “biết nói”: tổng vốn đầu tư là 61.711 tỷ đồng, gấp 6 lần tổng thu ngân sách của tỉnh hàng năm. Trong đó, bao gồm hàng chục nguồn lực đầu tư. Đó là vốn chương trình mục tiêu quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn cấp bù miễn thu thủy lợi phí, vốn ngân sách địa phương, vốn tín dụng Nhà nước, vốn vay nước ngoài, vốn tài trợ (ODA), vốn cộng đồng dân cư, ngày công huy động quy ra tiền, vốn các chương trình lồng ghép… Tất cả đều có chung một mục đích làm cho “tam nông” phát triển.
Nguồn lực đầu tư rất lớn ấy mang lại hiệu quả nhiều mặt. Tổng giá trị sản lượng ngành Nông nghiệp sau 5 năm thực hiện nghị quyết đã tăng gấp đôi: từ 17.970 tỷ đồng năm 2009 tăng lên 33.931 tỷ đồng vào năm 2013. Tốc độ tăng trưởng sản lượng và tăng trưởng về giá trị gia tăng của ngành Nông nghiệp bình quân 5 năm tăng 16,5%. Riêng 6 tháng đầu năm 2013, tăng trưởng của ngành Nông nghiệp đạt 9,1%. Sự tăng trưởng ấy kéo theo đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn cải thiện đáng kể. Nếu như năm 2008 (thời điểm Nghị quyết “tam nông” ra đời), thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 981.000 đồng/tháng, thì trong năm 2013 tăng lên 2,5 triệu đồng/tháng (tăng 154% so với năm 2008).
Sở NN&PTNT cho rằng, Nghị quyết “tam nông” đã tạo khí thế thi đua yêu nước sôi nổi, nội bộ ngành và nhân dân luôn phấn đấu tăng sản lượng lương thực, thực phẩm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng mô hình sản xuất đa dạng từ trồng trọt đến chăn nuôi, thủy sản và kinh tế hộ gia đình… Cơ cấu cây trồng, vật nuôi được chuyển đổi theo hướng tích cực, gắn với quy hoạch, phân vùng sản xuất, sử dụng đất đai và quy hoạch chương trình xây dựng nông thôn mới. Nhiều tiến bộ kỹ thuật mới được ứng dụng vào sản xuất. Ngoài một số hoạt động nghiên cứu khoa học cơ bản, còn có hàng trăm đề tài nghiên cứu khoa học ứng dụng và dự án chuyển giao công nghệ bao trùm mọi hoạt động ở nông thôn. Trong đó, rất nhiều đề tài liên quan đến lĩnh vực sản xuất, nuôi trồng, chế biến, góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng - vật nuôi, tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp.
Phát triển mạnh hạ tầng nông nghiệp, nông thôn
Nhờ sự đa dạng nguồn lực đầu tư và sự quan tâm đặc biệt dành cho lĩnh vực “tam nông” từ Trung ương và tỉnh mà Bạc Liêu ngày càng có nhiều cơ sở hạ tầng phục vụ trực tiếp nông nghiệp. Trên thực tế, Bạc Liêu có nhiều cơ sở nghiên cứu, khoa học - kỹ thuật, cơ sở chế biến thủy sản, lúa gạo, bảo quản nông sản và nhiều công trình thủy lợi (chủ yếu là hệ thống cống, đập) tầm cỡ khu vực, thậm chí chi phối hoạt động sản xuất của một số tỉnh khu vực bán đảo Cà Mau. Đó là các trung tâm, cơ sở sản xuất giống nông nghiệp - thủy sản, hệ thống trại thực nghiệm cùng các trung tâm thực nghiệm và chuyển giao khoa học - công nghệ ở các huyện; các nhà máy chế biến lúa gạo xuất khẩu thu gom nguyên liệu và xây dựng cánh đồng mẫu lớn liên tỉnh.
Theo Sở NN&PTNT, tỉnh đang triển khai dự án đầu tư Phòng kiểm nghiệm môi trường, xét nghiệm bệnh thú y và dự án nâng cấp Phòng xét nghiệm bệnh thủy sản đạt chuẩn quốc gia phục vụ vùng bán đảo Cà Mau (bao gồm các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang và Hậu Giang). Đáng chú ý, để đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết “tam nông”, toàn tỉnh đã làm mới, nâng cấp và sửa chữa 2.100 tuyến đường giao thông nông thôn, xây hơn 2.000 cây cầu, tổng vốn đầu tư hơn 1.000 tỷ đồng. Trong quá trình xây dựng, điều đáng trân trọng là có đến 335 ngàn ngày công lao động do nhân dân đóng góp, chưa kể giá trị đất và tài sản trên đất nhân dân không yêu cầu bồi thường. Cũng trong khoảng thời gian ấy, gần 2.000 tuyến kênh thủy lợi được nạo vét; 20 trạm bơm điện, 16 trạm bơm di động được xây dựng. Qua đó cơ bản đáp ứng yêu cầu cấp và thoát nước phục vụ sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân.
Nhiều người cho rằng, Nghị quyết “tam nông” được ví như một đoàn bẩy, tạo sức bật cho nhiều lĩnh vực. Đó là tăng trưởng kinh tế, góp phần ổn định xã hội, đổi mới bộ mặt nông thôn, đời sống nông dân tiến bộ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất… Nhưng có một thứ quan trọng quyết định sự thành công của nghị quyết, đó là được nhân dân đồng thuận và nhiệt tình hưởng ứng.
Tấn Đạt