Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy chứng nhận) không đúng quy định, đất rừng đang bị người dân tự ý đưa nước mặn vào nuôi tôm, hợp đồng giao khoán hết hạn không được thanh lý dứt điểm… cho thấy công tác quản lý thời gian qua rất lỏng lẻo, từ đó đã tạo ra nhiều nút thắt khó tháo gỡ.
Bài 2: Lỏng lẻo trong quản lý
Nước mặn xâm chiếm lâm phần
Việc người dân trong lâm phần tự ý đưa nước mặn vào nuôi tôm không còn là chuyện mới. Mặc dù đã diễn ra cách đây gần chục năm, song để giải quyết tình trạng này luôn là vấn đề thời sự, nó không dừng lại mà đang có chiều hướng ngày một mở rộng.
Nhắc đến tình trạng này không thể không nói đến 4 ấp bờ Tây Sông Trẹm, từ Ấp 17 đến Ấp 20 của xã Nguyễn Phích, huyện U Minh. Vào năm 2009, nơi đây đã có 249 trường hợp tự ý đưa nước mặn vào đất lâm nghiệp để nuôi tôm với diện tích 446 ha. Có đến 70 trường hợp chặt phá cây rừng để mở rộng diện tích đất sản xuất chưa được giải quyết dứt điểm, trong đó có 3 trường hợp thực hiện sai hợp đồng, có quyết định thu hồi đất nhưng cho đến nay vẫn chưa được thi hành. Đồng thời, ở khu vực này các đập phục vụ cho công tác phòng, chống cháy thường xuyên bị người dân phá, nhất là đập số 0, 4, 5, 6 để đưa nước mặn vào đất lâm nghiệp nuôi tôm.
Để hạn chế tình trạng này, ông Võ Văn Liêu, Phó chủ tịch UBND xã Nguyễn Phích, cho biết, xã đã nhiều lần lập biên bản xử lý và buộc họ làm cam kết khôi phục lại rừng, cũng như sử dụng đúng mục đích, nhưng các hộ này không thực hiện. Không chỉ có dân, cả cán bộ cũng đưa nước mặn vào để nuôi tôm.
Không thể bắt dân khôi phục lại hiện trạng ban đầu, nên ông Liêu kiến nghị, nếu được cho chuyển dịch một số khu vực ở các ấp này, với khoảng 1.710 ha. Bởi đây là khu vực rừng tái sinh, suy thoái, kém chất lượng, đây lại là vùng trũng nên sản xuất kết hợp cũng không hiệu quả, người dân không thể sống được bằng kinh tế rừng.
Không chỉ ở xã Nguyễn Phích, tại khu vực vùng đệm Vườn Quốc gia U Minh Hạ - nơi đang có khoảng 826 ha đất lâm phần đang giao khoán cho 194 hộ cũng đang râm ran tình trạng người dân tự ý đưa nước mặn vào nuôi tôm. Ông Ngô Văn Trường, Chủ tịch UBND xã Trần Hợi, cho biết, khu vực này hiện có khoảng 10 hộ, với khoảng 100 ha, đang trong tình trạng bị phá vỡ quy hoạch do việc tự ý đưa nước mặn vào nuôi tôm.
Đất rừng đang có thế đứng mới, nguồn lợi kinh tế mang lại ngày càng lớn, sẽ xảy ra tranh chấp nếu việc quản lý không được thực hiện khoa học và bài bản. (Trong ảnh: Khai thác keo lai tại rừng U Minh Hạ). |
Theo ông Sử Văn Minh, Phó chủ tịch UBND huyện Trần Văn Thời, thời gian qua, địa phương cương quyết xử lý nhưng không kết quả, phạt thì dân không có tiền đóng, còn tuyên truyền thì không cách nào cho dân hiểu. Bởi thực tế chỉ cách có con kinh, phía xã Khánh An, huyện U Minh cũng là đất lâm phần nhưng người dân ở đó đưa nước mặn vào nuôi tôm được, nên khi tuyên truyền dân hỏi ngược lại không giải thích được.
Hàng loạt hợp đồng giao khoán chưa được thanh lý
Câu chuyện quản lý lỏng lẻo còn thể hiện ở việc thanh lý hợp đồng giao khoán giữa các chủ rừng và dân. Kể từ khi tỉnh có chủ trương thu hồi phần đất của các lâm ngư trường giao về địa phương quản lý cấp cho dân, hầu như các hợp đồng giao khoán với dân đến nay đều chưa được thanh lý.
Về chuyện thanh lý hợp đồng, ông Trần Văn Hiếu, Giám đốc Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp U Minh Hạ, không nắm được có bao nhiêu hộ đã thanh lý và bao nhiêu hộ chưa. Theo ông Hiếu, khi bàn giao về địa phương chỉ có Lâm Ngư trường U Minh I là có biên bản thanh lý hợp đồng với từng hộ dân, còn lại những khu vực khác chưa rà soát và giải quyết dứt điểm.
Tương tự, tại khu vực Vườn Quốc gia U Minh Hạ, phần đất lâm nghiệp 826 ha của 194 hộ dân được thu hồi theo Quyết định số 61/QĐ-UBND ngày 13/8/2015, giao về cho xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời quản lý cũng đã hết hợp đồng nhưng đến nay vẫn chưa được thanh lý.
Ông Trần Ngọc Diệp, Trưởng Ban Kinh tế - Ngân sách HĐND tỉnh, nhận định, việc tồn đọng trong thanh lý hợp đồng hết hạn sẽ tạo ra vấn đề vô cùng khó khăn về mặt pháp lý nếu xảy ra tranh chấp. Bởi toàn bộ sổ hợp đồng trước kia (sổ xanh) đã hết hạn từ rất lâu, có khu vực trên 13 năm, mà hiện nay thực tế có đến 80% đang được thế chấp ở ngân hàng. Do đó, nếu người dân không trả nợ vay thì về mặt pháp lý công ty phải chịu, do trước kia công ty bảo lãnh cho người dân vay vốn.
Nhưng để giải quyết dứt điểm tồn đọng này, theo ông Lê Văn Hải, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm, là vô cùng khó, bởi do đã qua nhiều lần sáp nhập và chuyển đổi nên hồ sơ đã phân tán và thất lạc.
Trở lại câu chuyện cấp giấy chứng nhận của hơn 1.500 ha trong lâm phần thời gian qua không đúng quy định, càng thấy rõ hơn công tác quản lý hiện lỏng lẻo như thế nào.
Ông Trần Văn Thức, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT, cho biết, khi UBND huyện Trần Văn Thời cấp giấy chứng nhận ở xã Khánh Bình Tây Bắc, sở đã phát hiện sai và có nhiều văn bản yêu cầu chấn chỉnh nhưng đến nay chưa khắc phục được.
“Việc để tồn đọng hợp đồng khi bàn giao đất rừng về cho địa phương trước tiên là hạn chế của chủ rừng, sau đó là ngành nông nghiệp, ngành tài nguyên - môi trường trong việc tham mưu cũng như kiểm tra, giám sát”, ông Thức thừa nhận.
Chuyện cấp giấy chứng nhận sai quy định, công tác quản lý của địa phương còn hạn chế làm quy hoạch bị phá vỡ, nhiều hợp đồng chưa được thanh lý… đã tạo ra bài toán vô cùng nan giải về công tác quản lý đất rừng trong thời gian tới./.
Bài 1: Sai sót trong cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp
Song Nguyễn