ĐT: 0939.923988
Thứ tư, 16-4-25 21:36:00
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Nhớ ngày đi tập kết

Báo Cà Mau Tôi gia nhập đơn vị địa phương quân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Bạc Liêu, chưa tròn năm thì Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Ðông Dương được ký kết. Ðơn vị tôi cùng đơn vị địa phương quân huyện An Biên và một bộ phận tân binh học viên Trường Quân sự Tỉnh đội Bạc Liêu hợp thành một đại đội biên chế trong Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 3, thuộc miền Tây Nam Bộ, để chuẩn bị tập kết ra miền Bắc theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ.

Ðây là bức tượng trong cụm công trình Tượng đài “Chuyến tàu tập kết ra Bắc” tại thị trấn Sông Ðốc, huyện Trần Văn Thời, tái hiện hình ảnh cuộc tiễn đưa đầy xúc động 70 năm trước. Ảnh: HỒNG NHUNG

Ðây là bức tượng trong cụm công trình Tượng đài “Chuyến tàu tập kết ra Bắc” tại thị trấn Sông Ðốc, huyện Trần Văn Thời, tái hiện hình ảnh cuộc tiễn đưa đầy xúc động 70 năm trước. Ảnh: HỒNG NHUNG

Cuối tháng 10/1954, Ðại đội về đóng quân ở rạch Bà Bèo, thuộc xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước bây giờ. Hằng ngày, ngoài học tập, luyện quân, còn thời gian chủ yếu đi đắp đường, bồi lộ, bắc lại cầu, sửa sang lại nhà dân bị hư... để lại cho đồng bào trước khi “tạm biệt hai năm” rồi sẽ trở về. Ngày học tập, công tác, đêm liên hoan văn nghệ với đồng bào, nhất là thanh - thiếu niên hoặc dạy bình dân học vụ cho bà con. Tình đoàn kết quân dân càng đậm đà, thắm thiết. Nghĩ đến ngày chia tay, lòng dân cũng như lòng quân, ai ai cũng bồi hồi xao xuyến.

Thấm thoắt rồi ngày lên đường của đơn vị cũng đến. Ðêm liên hoan tiễn đưa thật là cảm động, không sao tả hết. Ðêm trung tuần tháng 12 dương lịch, nhằm đêm trăng sáng của tháng 11 năm Giáp Ngọ ấy, đông đảo bà con trong ấp, cả trong xã kéo đến chật sân trên miếng ruộng giữa xóm. Hầu như nhà ai cũng đều có mặt. Sau lời chia tay đầy thân thiết và xúc động của đồng chí chỉ huy đơn vị, lần lượt cán bộ địa phương rồi đại diện cho cán bộ phụ lão, hội mẹ, phụ nữ, thanh niên... ai cũng nói lên nỗi niềm lưu luyến, bùi ngùi khi phải chia tay, nhưng vẫn tin tưởng ở ngày tổng tuyển cử 2 năm nữa sẽ gặp lại trong ngày vui chung của dân tộc. Ðêm đã khuya, trăng ngả dài về hướng Tây, nhưng những lời nhắn nhủ, yêu thương gởi gắm cho nhau của kẻ ở người đi tưởng chừng như chẳng dứt được...

Sáng hôm sau, Ðại đội tập hợp hành quân trong đội hình tiểu đoàn, bà con trong xóm lại đến gần như đông đủ. Nhiều mẹ, nhiều chị, cả các chú nông dân, đem xôi, bánh tét, bánh lá dừa, thuốc hút, gởi theo bộ đội.

Ðơn vị hành quân bộ, nhiều mẹ, chị và thanh - thiếu niên đi theo, tiễn đưa đến tận đầu kênh xáng Phụng Hiệp, quân dân nắm tay nhau không muốn rời, mắt ai cũng đều ứa lệ.

Ðơn vị hành quân từ kênh xáng Phụng Hiệp đến Chợ Hội, xuống Huyện Sử để ra bến tập kết Chắc Băng. Dọc theo đường hành quân, đồng bào đều biết là bộ đội đi tập kết nên ai cũng vẫy tay, vẫy khăn, nón để tiễn biệt. Các em thiếu nhi thì từng đoàn chạy theo bộ đội một khoảng xa. Chúng tôi vừa phấn khởi vừa cảm động, nghĩ đến mai đây đối phương trở lại, đồng bào sẽ sống thế nào!

*

Ðơn vị hành quân đến bến tập kết khoảng 3 giờ chiều ngày 17/12/1954. Ðây là một khoảng đất rộng độ bằng 2 sân bóng đá nằm trên bờ vàm kênh xáng Chắc Băng. Mặt sông là nơi tàu và xuồng ghe đậu một dọc dài, còn 3 mặt là những dãy nhà lá nối nhau để cho cơ quan chỉ huy bến tập kết làm việc và cho bộ đội trước khi lên đường (chỉ một đêm) cùng người thân đến chia tay, tạm trú.

Trên khoảng sân rộng là bãi chiếu bóng và sân khấu biểu diễn văn nghệ, cũng là nơi tập hợp bộ đội để xuống tàu. Xung quanh bến và xa hơn một chút dọc hai bên bờ kênh xáng là băng, khẩu hiệu, panô, áp phích, cờ Tổ quốc, cờ hoà bình rợp trời. Tại bến tập kết Chắc Băng lúc nào không khí cũng rộn ràng, tấp nập; dưới sông thì xuồng ghe ken dày, trên bờ lúc nào cũng có người đông đúc đi lại. Ðó là bộ đội, cán bộ dân chánh và người thân từ khắp các tỉnh, thành Nam Bộ đến chia tay, đưa tiễn. Ðêm nào cũng có chiếu phim và văn công biểu diễn tới khuya, nhưng mọi người đến đây gần như ai cũng không ngủ. Người sắp tập kết ra miền Bắc và người ở lại miền Nam tụ họp nhau mỗi nơi một nhóm, chỗ trong nhà, chỗ ngoài sân, có khi nơi lùm cây... với trà lá, bánh trái hoặc là lai rai ly rượu. Họ nói chuyện tâm tình cho tới khi mặt trời lên vẫn còn tiếp tục, nhất là các cặp vợ chồng trẻ, câu chuyện của họ dường như không dứt!

Ðúng 1 giờ chiều ngày hôm sau (18/12), sau một đêm và một buổi giã từ và tiễn biệt, tiểu đoàn cùng các đơn vị bạn tập hợp trên sân trước cột cờ lớn để chuẩn bị xuống tàu (ở bến tập kết Chắc Băng, nhiều tàu nhỏ của Pháp đến đưa bộ đội và cán bộ ta ra tới Vũng Tàu rồi mới qua tàu Liên Xô đi ra miền Bắc). Những người đi đưa tiễn cũng tập hợp chỉnh tề để tiễn đưa, có nhiều người cầm cờ đỏ sao vàng và cờ hoà bình. Trong giờ phút tiễn biệt trang trọng này, mặc dù không ai nói lời nào, trong lòng mỗi người ai nấy cũng thấy xao xuyến bồi hồi, có nhiều người đôi mắt rưng rưng.

Sau khi người chỉ huy thay mặt bộ đội và những người đi tập kết nói lời tạm biệt ngắn gọn với đồng bào, đồng chí và người thân tràn đầy xúc động, những người ra đi xếp hai hàng dọc đều bước xuống tàu giữa rừng cờ vẫy gọi, giữa tiếng hò reo. “Hai năm sẽ gặp! Hai năm sẽ gặp!”. Mỗi người chúng tôi lòng dạ bâng khuâng, nhất tề đưa 2 ngón tay lên cao biểu thị 2 năm sẽ trở về... Ðoàn tàu chạy khuất xa rồi mà chúng tôi vẫn còn nghe tiếng vọng của những người đưa tiễn!

Mấy mươi năm đã trôi qua, đất nước, quê hương làm nên những chiến tích lịch sử diệu kỳ. Phần riêng mình, tôi cũng đã đi đến nhiều miền Tổ quốc và có những kỷ niệm khó quên, nhưng ấn tượng sâu sắc trong những ngày đồng bào nơi đóng quân đưa tiễn, và ngày cùng đồng đội xuống tàu đi tập kết ra miền Bắc cuối năm 1954 vẫn in đậm trong tôi!

 

Nguyễn Hoe

 

Trang sử Cà Mau thời kháng chiến năm 1973

Sau Hiệp định Paris năm 1973, về mặt đấu tranh công khai, Ban Liên hợp quân sự 4 bên khu vực 4 (Quân khu 9), do đồng chí Hoàng Hà làm Trưởng ban, đồng chí Phạm Văn Liêm làm Phó ban, Tổ liên hợp Cà Mau do đồng chí Tống Kỳ Hiệp và đồng chí Trịnh Thành Kế phụ trách đã đấu tranh chống lại sự vi phạm Hiệp định của địch trong khu vực. Ta buộc địch công nhận vùng tự do của ta ở Cà Mau và đã thực hiện việc trao trả tù binh ở Kinh Ba, xã Quách Phẩm, huyện Ngọc Hiển (Tư Kháng), Ðầm Dơi ngày nay.

Về “Đất thép thành đồng”

Thiết thực các hoạt động chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025), kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3/1931-26/3/2025), ngày 30/3, đồng chí Nguyễn Hồ Hải, Bí thư Tỉnh uỷ, cùng đoàn cán bộ Tỉnh đoàn đã có chuyến hành trình giáo dục truyền thống, về nguồn tại "Ðất thép thành đồng": Củ Chi - TP Hồ Chí Minh.

“Chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú - Dấu xưa một thời

Trong hành trình tìm về quá khứ, có những việc tuy ngoài sách sử, nhưng lại đậm sâu trong ký ức nhiều người. Ðó cũng là câu chuyện về “chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú, nay thuộc ấp Sở Tại, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước.

Những ngày tháng Ba của mùa Xuân đại thắng

Nửa thế kỷ đã qua kể từ mùa Xuân đại thắng 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bắc - Nam sum họp một nhà, đất nước thống nhất, kết thúc thắng lợi vẻ vang cuộc kháng chiến của dân tộc chống lại đế quốc sừng sỏ và bè lũ tay sai. Tháng 3/1975 là “đêm trước” của ngưỡng cửa chiến thắng. Cục diện chiến trường chuyển biến mau lẹ; không khí cách mạng dâng cao sục sôi; cùng với đó là sự lãnh đạo, chỉ đạo bằng tất cả ý chí, niềm tin, sức mạnh của Đảng ta, để toàn dân tộc cùng nhau kề vai chung sức, chớp lấy thời cơ, làm nên một chiến thắng vang dội, hào hùng, bất tử.

Thân thương hai tiếng Cà Mau

Cà Mau không chỉ là điểm cuối của đất nước, nơi ai cũng mong một lần được ghi dấu bước chân mình tại cột mốc toạ độ, mà còn là vùng đất để lại trong tim nhiều người những tình cảm khó quên.

Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng - Lịch sử không thể lãng quên

Tôi đồng tình với ông Sáu Sơn (ông Ðỗ Văn Nghiệp, tác giả chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh “Ðiều tra, sưu tầm chứng tích tội ác Mỹ - Nguỵ tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng” cách đây 20 năm), rằng: “Khép lại quá khứ, không có nghĩa là lãng quên quá khứ. Bài học đúc kết từ quá khứ là bài học bằng xương máu, sẽ có nhiều bổ ích cho hiện tại và tương lai”.

Bến Dựa một lần về

Bến Dựa chỉ là một đoạn sông ngắn, hằng ngày cần mẫn làm người trung chuyển đưa nước lớn về ngã ba Cái Đuốc, ngọn Cái Ngay; tiễn nước ròng ra Cái Nháp, đổ ra ngã ba Tam Giang, xuôi về biển cả. Khu rừng bên bờ Đông Bến Dựa nơi cơ quan Huyện uỷ Tư Kháng (Đầm Dơi ngày nay), làng rừng Huỳnh Ngọc Điệp tồn tại.

Chiều Sài Gòn

Tựa bài viết “Chiều Sài Gòn” nghe như chơi vơi, rất xưa, bởi Sài Gòn - Gia Ðịnh đã có hơn 300 năm tuổi, thì đồng nghĩa cũng có hơn một triệu buổi chiều. Nhưng “Chiều Sài Gòn” tôi viết đây chỉ là chiều 30/4/1975, buổi chiều đầu tiên “Sài Gòn ơi ta đã về đây” như lời bài hát một thời có sức hút mạnh mẽ.

Huyền thoại biệt động thành Cà Mau

Thị xã Cà Mau những năm cuối thập niên 1950, dưới chế độ Mỹ - Diệm, không khí ngột ngạt bởi những cuộc càn quét, bắt bớ. Đám cảnh sát mật vụ, lính bảo an lùng sục khắp nơi, ráo riết truy lùng những người kháng chiến cũ, những người mà chúng nghi là "Việt cộng nằm vùng".

Thăm địa chỉ đỏ

Di tích Hồng Anh Thư Quán (số 43, đường Phạm Văn Ký, Phường 2, TP Cà Mau) là một trong những di tích lịch sử hiếm hoi ghi dấu chặng đường cách mạng của người Cà Mau trước năm 1930. Hồng Anh Thư Quán được công nhận Di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia ngày 4/8/1992.