ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 1-6-25 10:02:18
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Nhớ ngày đi tập kết

Báo Cà Mau Tôi gia nhập đơn vị địa phương quân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Bạc Liêu, chưa tròn năm thì Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Ðông Dương được ký kết. Ðơn vị tôi cùng đơn vị địa phương quân huyện An Biên và một bộ phận tân binh học viên Trường Quân sự Tỉnh đội Bạc Liêu hợp thành một đại đội biên chế trong Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 3, thuộc miền Tây Nam Bộ, để chuẩn bị tập kết ra miền Bắc theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ.

Ðây là bức tượng trong cụm công trình Tượng đài “Chuyến tàu tập kết ra Bắc” tại thị trấn Sông Ðốc, huyện Trần Văn Thời, tái hiện hình ảnh cuộc tiễn đưa đầy xúc động 70 năm trước. Ảnh: HỒNG NHUNG

Ðây là bức tượng trong cụm công trình Tượng đài “Chuyến tàu tập kết ra Bắc” tại thị trấn Sông Ðốc, huyện Trần Văn Thời, tái hiện hình ảnh cuộc tiễn đưa đầy xúc động 70 năm trước. Ảnh: HỒNG NHUNG

Cuối tháng 10/1954, Ðại đội về đóng quân ở rạch Bà Bèo, thuộc xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước bây giờ. Hằng ngày, ngoài học tập, luyện quân, còn thời gian chủ yếu đi đắp đường, bồi lộ, bắc lại cầu, sửa sang lại nhà dân bị hư... để lại cho đồng bào trước khi “tạm biệt hai năm” rồi sẽ trở về. Ngày học tập, công tác, đêm liên hoan văn nghệ với đồng bào, nhất là thanh - thiếu niên hoặc dạy bình dân học vụ cho bà con. Tình đoàn kết quân dân càng đậm đà, thắm thiết. Nghĩ đến ngày chia tay, lòng dân cũng như lòng quân, ai ai cũng bồi hồi xao xuyến.

Thấm thoắt rồi ngày lên đường của đơn vị cũng đến. Ðêm liên hoan tiễn đưa thật là cảm động, không sao tả hết. Ðêm trung tuần tháng 12 dương lịch, nhằm đêm trăng sáng của tháng 11 năm Giáp Ngọ ấy, đông đảo bà con trong ấp, cả trong xã kéo đến chật sân trên miếng ruộng giữa xóm. Hầu như nhà ai cũng đều có mặt. Sau lời chia tay đầy thân thiết và xúc động của đồng chí chỉ huy đơn vị, lần lượt cán bộ địa phương rồi đại diện cho cán bộ phụ lão, hội mẹ, phụ nữ, thanh niên... ai cũng nói lên nỗi niềm lưu luyến, bùi ngùi khi phải chia tay, nhưng vẫn tin tưởng ở ngày tổng tuyển cử 2 năm nữa sẽ gặp lại trong ngày vui chung của dân tộc. Ðêm đã khuya, trăng ngả dài về hướng Tây, nhưng những lời nhắn nhủ, yêu thương gởi gắm cho nhau của kẻ ở người đi tưởng chừng như chẳng dứt được...

Sáng hôm sau, Ðại đội tập hợp hành quân trong đội hình tiểu đoàn, bà con trong xóm lại đến gần như đông đủ. Nhiều mẹ, nhiều chị, cả các chú nông dân, đem xôi, bánh tét, bánh lá dừa, thuốc hút, gởi theo bộ đội.

Ðơn vị hành quân bộ, nhiều mẹ, chị và thanh - thiếu niên đi theo, tiễn đưa đến tận đầu kênh xáng Phụng Hiệp, quân dân nắm tay nhau không muốn rời, mắt ai cũng đều ứa lệ.

Ðơn vị hành quân từ kênh xáng Phụng Hiệp đến Chợ Hội, xuống Huyện Sử để ra bến tập kết Chắc Băng. Dọc theo đường hành quân, đồng bào đều biết là bộ đội đi tập kết nên ai cũng vẫy tay, vẫy khăn, nón để tiễn biệt. Các em thiếu nhi thì từng đoàn chạy theo bộ đội một khoảng xa. Chúng tôi vừa phấn khởi vừa cảm động, nghĩ đến mai đây đối phương trở lại, đồng bào sẽ sống thế nào!

*

Ðơn vị hành quân đến bến tập kết khoảng 3 giờ chiều ngày 17/12/1954. Ðây là một khoảng đất rộng độ bằng 2 sân bóng đá nằm trên bờ vàm kênh xáng Chắc Băng. Mặt sông là nơi tàu và xuồng ghe đậu một dọc dài, còn 3 mặt là những dãy nhà lá nối nhau để cho cơ quan chỉ huy bến tập kết làm việc và cho bộ đội trước khi lên đường (chỉ một đêm) cùng người thân đến chia tay, tạm trú.

Trên khoảng sân rộng là bãi chiếu bóng và sân khấu biểu diễn văn nghệ, cũng là nơi tập hợp bộ đội để xuống tàu. Xung quanh bến và xa hơn một chút dọc hai bên bờ kênh xáng là băng, khẩu hiệu, panô, áp phích, cờ Tổ quốc, cờ hoà bình rợp trời. Tại bến tập kết Chắc Băng lúc nào không khí cũng rộn ràng, tấp nập; dưới sông thì xuồng ghe ken dày, trên bờ lúc nào cũng có người đông đúc đi lại. Ðó là bộ đội, cán bộ dân chánh và người thân từ khắp các tỉnh, thành Nam Bộ đến chia tay, đưa tiễn. Ðêm nào cũng có chiếu phim và văn công biểu diễn tới khuya, nhưng mọi người đến đây gần như ai cũng không ngủ. Người sắp tập kết ra miền Bắc và người ở lại miền Nam tụ họp nhau mỗi nơi một nhóm, chỗ trong nhà, chỗ ngoài sân, có khi nơi lùm cây... với trà lá, bánh trái hoặc là lai rai ly rượu. Họ nói chuyện tâm tình cho tới khi mặt trời lên vẫn còn tiếp tục, nhất là các cặp vợ chồng trẻ, câu chuyện của họ dường như không dứt!

Ðúng 1 giờ chiều ngày hôm sau (18/12), sau một đêm và một buổi giã từ và tiễn biệt, tiểu đoàn cùng các đơn vị bạn tập hợp trên sân trước cột cờ lớn để chuẩn bị xuống tàu (ở bến tập kết Chắc Băng, nhiều tàu nhỏ của Pháp đến đưa bộ đội và cán bộ ta ra tới Vũng Tàu rồi mới qua tàu Liên Xô đi ra miền Bắc). Những người đi đưa tiễn cũng tập hợp chỉnh tề để tiễn đưa, có nhiều người cầm cờ đỏ sao vàng và cờ hoà bình. Trong giờ phút tiễn biệt trang trọng này, mặc dù không ai nói lời nào, trong lòng mỗi người ai nấy cũng thấy xao xuyến bồi hồi, có nhiều người đôi mắt rưng rưng.

Sau khi người chỉ huy thay mặt bộ đội và những người đi tập kết nói lời tạm biệt ngắn gọn với đồng bào, đồng chí và người thân tràn đầy xúc động, những người ra đi xếp hai hàng dọc đều bước xuống tàu giữa rừng cờ vẫy gọi, giữa tiếng hò reo. “Hai năm sẽ gặp! Hai năm sẽ gặp!”. Mỗi người chúng tôi lòng dạ bâng khuâng, nhất tề đưa 2 ngón tay lên cao biểu thị 2 năm sẽ trở về... Ðoàn tàu chạy khuất xa rồi mà chúng tôi vẫn còn nghe tiếng vọng của những người đưa tiễn!

Mấy mươi năm đã trôi qua, đất nước, quê hương làm nên những chiến tích lịch sử diệu kỳ. Phần riêng mình, tôi cũng đã đi đến nhiều miền Tổ quốc và có những kỷ niệm khó quên, nhưng ấn tượng sâu sắc trong những ngày đồng bào nơi đóng quân đưa tiễn, và ngày cùng đồng đội xuống tàu đi tập kết ra miền Bắc cuối năm 1954 vẫn in đậm trong tôi!

 

Nguyễn Hoe

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.