Thứ tư, 3-9-25 18:44:36
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Những trường trung học kháng chiến Nam Bộ chuẩn bị đi tập kết tháng 10/1954

Báo Cà Mau Cuối năm Giáp Ngọ 1954, hàng trăm nam, nữ học sinh của các trường trung học kháng chiến Nam Bộ, phần lớn ở theo ngọn sông Cái Tàu, sông Ông Ðốc và Bảy Háp, khẩn trương thu xếp mọi thứ để chuẩn bị đi tập kết.

Tôi là một học sinh 16 tuổi, nhỏ nhất của trường. Tôi được đưa về Sở Giáo dục Nam Bộ, Phòng Tu thơ (soạn giáo khoa phổ biến các tỉnh Nam Bộ). Trưởng phòng Tu thơ là bác Chín Hạnh, Phó phòng là chú Hồ Hảo Hớn, cũng là giáo sư giảng dạy chúng tôi ở trường (Sở Giáo dục đóng ở Rạch Chệt, Phòng Tu thơ đóng ở Rạch Tắc). Qua được hơn tháng cơ quan dời về Trường Nguyễn Văn Tố. Ôi! Cảnh cũ người xưa đâu còn nữa. Những đêm tối trời nằm nghe gió U Minh xạc xào trên cành lá, lòng thiếu niên tuổi 16 mang một nỗi buồn nhung nhớ. May sao, một hôm gặp thầy Hà Mâu Nhai, thầy dạy môn Văn học, đang phụ trách Chi hội Nam Bộ. Lúc đó đóng cơ quan bên sông Cái Tàu, thầy đặt vấn đề xin tôi về hội. Ðược thầy Nhung, thầy Hớn và trên đồng ý, tôi được chuyển về Chi hội Văn nghệ. Tôi ở đây đến khi các trường lo chuẩn bị tập kết, cuối năm 1954 và đầu năm 1955.

Ðồng bào miền Nam tiễn con em tập kết ra Bắc.  (Tư liệu Bảo tàng lịch sử Quốc gia)

Ðồng bào miền Nam tiễn con em tập kết ra Bắc. (Tư liệu Bảo tàng lịch sử Quốc gia)

Ngôi trường thân yêu của chúng tôi là ngôi trường đầu tiên của Nam Bộ. Sau đó, còn các ngôi trường khác ra đời như: Trường Thái Văn Lung, Trường Huỳnh Phan Hộ, Trường Trung học Bình Dân, Trường Sư phạm Nguyễn Công Mỹ... thầy cô và học sinh đã đóng góp đáng kể vào cuộc kháng chiến khi ấy và xây dựng đất nước sau này.

Sau này đất nước thống nhất, riêng Trường Nguyễn Văn Tố có thể kể ra: Cô Nguyễn Thị Diệu, thầy Hồ Hảo Hớn được phong liệt sĩ và TP Hồ Chí Minh đặt tên đường. Bác Lê Văn Chí là Bộ trưởng Bộ Giáo dục, bác Nguyễn Văn Chì là Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc TP Hồ Chí Minh, thầy Kính và cô Hy là đại sứ một số nước. Thầy Khanh, thầy Tửng là giảng viên, trường Ðảng cao cấp. Thầy Tòng làm Phó giám đốc Sở Văn hoá TP Hồ Chí Minh. Ðó là lớp thầy cô, còn lớp học sinh thành đạt khá nhiều, như Bùi Ðức Ái giỏi văn, Nguyễn Quang Sáng, Ðoàn Thế Hối (Lê Vĩnh Hoà). Sân khấu có Ðặng Ngươn Chức (Hà Triều), Huỳnh Kim Thạch (Mai Quân), Lê Văn Niên (Vĩnh Ðiền). Hội hoạ có anh Minh (Sáu Hiền), Hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Gia Ðịnh. Nhiếp ảnh có anh Hiến (phụ trách bộ phận nhiếp ảnh Thông tấn xã TP Hồ Chí Minh. Ðiện ảnh có anh Hà Hữu Nghiêm, Giám đốc Xưởng phim tài liệu thời sự TP Hồ Chí Minh. Ngành giáo dục có chị Võ Ngọc Tươi (Hiệu phó Trường Ðại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh); chị Hồ Ngọc Thiện, Hiệu trưởng Trường Trung cấp Chính trị Nguyễn Văn Cừ; chị Ung Ngọc Minh, Phó giáo sư Trường Ðại học Kinh tế. Ngành công an, quân đội có các đại tá, như anh Phạm Văn Ðiện (Mười Quang), anh Nguyễn Văn Bút, anh Danh (Lưu), anh Vững... Về công nghiệp có anh Nguyễn Văn Anh, Giám đốc Sở Công nghiệp thành phố, anh Lê Minh Trí (Trí Mỡ), Giám đốc Hãng giày Ba ta TP Hồ Chí Minh. Nhưng tham gia hệ thống Ðảng, chính quyền là rất nhiều người, như anh Ẩn, anh Hùng, anh Hương, anh Hoà, anh Long, chị Lang, anh Quế, anh Khải, anh Hương, trừ anh Xuân Vũ đã ở quá xa, anh Ðẩu (Sáu Kiên).

Xin được trích thêm đoạn ký của Nhà văn Nguyễn Quang Sáng nói về Lê Vĩnh Hoà, ta thấy rõ hơn.

... Học được hai khoá, trường chia làm hai, một số ra trường đi công tác, một số ở lại học tiếp. Ðoàn Thế Hối (Lê Vĩnh Hoà) ở lại, tôi ra trường. Tôi về Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Tây Nam Bộ. Một buổi trưa, bên bờ kênh Chắc Băng, nơi đóng quân, tôi thấy từ xa một chiếc xuồng đâm vào bờ, Cao Minh Phùng, bạn học cùng lớp, cầm cây đờn “Banjo” trao cho tôi:

- Thằng Hối (Hoà) sợ mầy buồn, nó gởi cây đờn cho mầy.

Từ đó, cây đờn của Hối gắn với tôi khắp cả sông rạch trên chiến trường miền Tây. Thời đó, tôi chỉ thuộc có mấy bài của Ðặng Thế Phong, Lê Thương, Văn Cao... quần đi quần lại không quá 10 bài, nhưng không thấy chán, cây đàn của Hối đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi.

Năm 1954, về công tác ở Tỉnh đội Sóc Trăng, tôi đến Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ, thăm ba thằng bạn học: Ðoàn Thế Hối, Phạm Văn Khoa, Nguyễn Khắc Hân. Ðêm, mấy anh em trải chiếu trên nền đất, ôm nhau ngủ. Năm đó, tôi sắp đi tập kết, còn ba thằng bạn thì ở lại.

Vậy là tôi đi tập kết. Năm 1966, tôi vượt Trường Sơn về Nam. Hỏi bạn bè, biết Khoa là cán bộ lãnh đạo ở chiến trường Cần Thơ, Nguyễn Khắc Hân làm báo trong nội thành Sài Gòn. Ðoàn Thế Hối (Hoà) đang ở U Minh, là nhà văn nổi tiếng với bút danh Lê Vĩnh Hoà.

Trong con mắt của bạn học Trường Nguyễn Văn Tố, Ðoàn Thế Hối trở thành nhà văn nổi tiếng là lẽ đương nhiên, còn tôi trở thành nhà văn mới là điều lạ. Chính mình đôi lúc cũng thấy lạ cho mình, huống chi là bạn bè.

Sao Ðoàn Thế Hối không lấy bút danh gì khác mà lấy bút danh Lê Vĩnh Hoà. Không gặp nhau để hỏi, nhưng tôi biết trong một ngày nghỉ hè, Ðoàn Thế Hối đưa tôi về thăm gia đình anh. Nhà của Hối ở là Vĩnh Hoà Hưng, tỉnh Rạch Giá. Hối lấy tên làng làm bút danh của mình. Tôi đoán và chắc là đúng.

Sau ngày tôi tập kết, Ðoàn Thế Hối vào Sài Gòn hoạt động. Ðoàn Thế Hối nhanh chóng nổi tiếng với bút danh Lê Vĩnh Hoà trên các báo Nhân Loại, Tiến Thủ, Quyền Sống, Bông Lúa, Phụ Nữ Diễn Ðàn... với những truyện ngắn: Trăng lu, Chiếc áo thiên thanh, Nước cạn, Mưa rơi trên sông, Hội banh Xóm Giếng...

Năm 1959, Lê Vĩnh Hoà bị chính quyền Ngô Ðình Diệm bắt, ngồi tù suốt 5 năm. Năm 1964 ra tù, anh vào chiến khu miền Tây, tiếp tục viết một loạt truyện ngắn trên mặt báo của chiến trường: Những người cùng xóm, Chuyện một người săn máy bay, Trước đêm tập kết, Trông ra tiền tuyến, Mấy trang nhựt ký bên chiến hào...

Từ miền Ðông (R) tôi gởi một lá thư dài về miền Tây cho Lê Vĩnh Hoà, nhắc lại cây đàn “Banjo” và nhiều chuyện.

Một năm sau, mùa nước nổi ở chiến trường Ðồng Tháp, tôi nhận được thư của một bạn văn nghệ ở miền Tây cho biết Lê Vĩnh Hoà đã nhận được thơ mừng lắm, chưa kịp viết thư trả lời thì hy sinh trong trận đánh lớn ở Thanh Thuỷ - Xẻo Giá - Cần Thơ, mùng 7 tháng Giêng năm Ðinh Mùi 1967... (hết trích).

Nhà văn Lê Vĩnh Hoà đã để lại nhiều tác phẩm xuất sắc mang nhiều dấu ấn qua từng thời kỳ của cuộc chiến tranh cứu nước. Với tôi, giọng văn của Lê Vĩnh Hoà như giọng nói của anh rất quen thuộc, ngọt ngào, nhỏ nhẻ, buồn buồn, dễ vào lòng người.

Năm 2001, về lĩnh vực văn hoá nghệ thuật, Chính phủ đã tặng Giải thưởng Nhà nước cho Nhà văn Lê Vĩnh Hoà, thật xứng đáng.

Khi ra trường và khi tập kết, mỗi người, mỗi ngành, mỗi công tác tương lai mọi người khó đoán trước được.

Sau năm 1975, mỗi năm thầy trò Trường Nguyễn Văn Tố đều có buổi họp mặt vào những ngày giáp Tết./.

 

Nguyễn Bá

 

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.