ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 1-6-25 09:29:51
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Những trường trung học kháng chiến Nam Bộ chuẩn bị đi tập kết tháng 10/1954

Báo Cà Mau Cuối năm Giáp Ngọ 1954, hàng trăm nam, nữ học sinh của các trường trung học kháng chiến Nam Bộ, phần lớn ở theo ngọn sông Cái Tàu, sông Ông Ðốc và Bảy Háp, khẩn trương thu xếp mọi thứ để chuẩn bị đi tập kết.

Tôi là một học sinh 16 tuổi, nhỏ nhất của trường. Tôi được đưa về Sở Giáo dục Nam Bộ, Phòng Tu thơ (soạn giáo khoa phổ biến các tỉnh Nam Bộ). Trưởng phòng Tu thơ là bác Chín Hạnh, Phó phòng là chú Hồ Hảo Hớn, cũng là giáo sư giảng dạy chúng tôi ở trường (Sở Giáo dục đóng ở Rạch Chệt, Phòng Tu thơ đóng ở Rạch Tắc). Qua được hơn tháng cơ quan dời về Trường Nguyễn Văn Tố. Ôi! Cảnh cũ người xưa đâu còn nữa. Những đêm tối trời nằm nghe gió U Minh xạc xào trên cành lá, lòng thiếu niên tuổi 16 mang một nỗi buồn nhung nhớ. May sao, một hôm gặp thầy Hà Mâu Nhai, thầy dạy môn Văn học, đang phụ trách Chi hội Nam Bộ. Lúc đó đóng cơ quan bên sông Cái Tàu, thầy đặt vấn đề xin tôi về hội. Ðược thầy Nhung, thầy Hớn và trên đồng ý, tôi được chuyển về Chi hội Văn nghệ. Tôi ở đây đến khi các trường lo chuẩn bị tập kết, cuối năm 1954 và đầu năm 1955.

Ðồng bào miền Nam tiễn con em tập kết ra Bắc.  (Tư liệu Bảo tàng lịch sử Quốc gia)

Ðồng bào miền Nam tiễn con em tập kết ra Bắc. (Tư liệu Bảo tàng lịch sử Quốc gia)

Ngôi trường thân yêu của chúng tôi là ngôi trường đầu tiên của Nam Bộ. Sau đó, còn các ngôi trường khác ra đời như: Trường Thái Văn Lung, Trường Huỳnh Phan Hộ, Trường Trung học Bình Dân, Trường Sư phạm Nguyễn Công Mỹ... thầy cô và học sinh đã đóng góp đáng kể vào cuộc kháng chiến khi ấy và xây dựng đất nước sau này.

Sau này đất nước thống nhất, riêng Trường Nguyễn Văn Tố có thể kể ra: Cô Nguyễn Thị Diệu, thầy Hồ Hảo Hớn được phong liệt sĩ và TP Hồ Chí Minh đặt tên đường. Bác Lê Văn Chí là Bộ trưởng Bộ Giáo dục, bác Nguyễn Văn Chì là Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc TP Hồ Chí Minh, thầy Kính và cô Hy là đại sứ một số nước. Thầy Khanh, thầy Tửng là giảng viên, trường Ðảng cao cấp. Thầy Tòng làm Phó giám đốc Sở Văn hoá TP Hồ Chí Minh. Ðó là lớp thầy cô, còn lớp học sinh thành đạt khá nhiều, như Bùi Ðức Ái giỏi văn, Nguyễn Quang Sáng, Ðoàn Thế Hối (Lê Vĩnh Hoà). Sân khấu có Ðặng Ngươn Chức (Hà Triều), Huỳnh Kim Thạch (Mai Quân), Lê Văn Niên (Vĩnh Ðiền). Hội hoạ có anh Minh (Sáu Hiền), Hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Gia Ðịnh. Nhiếp ảnh có anh Hiến (phụ trách bộ phận nhiếp ảnh Thông tấn xã TP Hồ Chí Minh. Ðiện ảnh có anh Hà Hữu Nghiêm, Giám đốc Xưởng phim tài liệu thời sự TP Hồ Chí Minh. Ngành giáo dục có chị Võ Ngọc Tươi (Hiệu phó Trường Ðại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh); chị Hồ Ngọc Thiện, Hiệu trưởng Trường Trung cấp Chính trị Nguyễn Văn Cừ; chị Ung Ngọc Minh, Phó giáo sư Trường Ðại học Kinh tế. Ngành công an, quân đội có các đại tá, như anh Phạm Văn Ðiện (Mười Quang), anh Nguyễn Văn Bút, anh Danh (Lưu), anh Vững... Về công nghiệp có anh Nguyễn Văn Anh, Giám đốc Sở Công nghiệp thành phố, anh Lê Minh Trí (Trí Mỡ), Giám đốc Hãng giày Ba ta TP Hồ Chí Minh. Nhưng tham gia hệ thống Ðảng, chính quyền là rất nhiều người, như anh Ẩn, anh Hùng, anh Hương, anh Hoà, anh Long, chị Lang, anh Quế, anh Khải, anh Hương, trừ anh Xuân Vũ đã ở quá xa, anh Ðẩu (Sáu Kiên).

Xin được trích thêm đoạn ký của Nhà văn Nguyễn Quang Sáng nói về Lê Vĩnh Hoà, ta thấy rõ hơn.

... Học được hai khoá, trường chia làm hai, một số ra trường đi công tác, một số ở lại học tiếp. Ðoàn Thế Hối (Lê Vĩnh Hoà) ở lại, tôi ra trường. Tôi về Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Tây Nam Bộ. Một buổi trưa, bên bờ kênh Chắc Băng, nơi đóng quân, tôi thấy từ xa một chiếc xuồng đâm vào bờ, Cao Minh Phùng, bạn học cùng lớp, cầm cây đờn “Banjo” trao cho tôi:

- Thằng Hối (Hoà) sợ mầy buồn, nó gởi cây đờn cho mầy.

Từ đó, cây đờn của Hối gắn với tôi khắp cả sông rạch trên chiến trường miền Tây. Thời đó, tôi chỉ thuộc có mấy bài của Ðặng Thế Phong, Lê Thương, Văn Cao... quần đi quần lại không quá 10 bài, nhưng không thấy chán, cây đàn của Hối đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi.

Năm 1954, về công tác ở Tỉnh đội Sóc Trăng, tôi đến Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ, thăm ba thằng bạn học: Ðoàn Thế Hối, Phạm Văn Khoa, Nguyễn Khắc Hân. Ðêm, mấy anh em trải chiếu trên nền đất, ôm nhau ngủ. Năm đó, tôi sắp đi tập kết, còn ba thằng bạn thì ở lại.

Vậy là tôi đi tập kết. Năm 1966, tôi vượt Trường Sơn về Nam. Hỏi bạn bè, biết Khoa là cán bộ lãnh đạo ở chiến trường Cần Thơ, Nguyễn Khắc Hân làm báo trong nội thành Sài Gòn. Ðoàn Thế Hối (Hoà) đang ở U Minh, là nhà văn nổi tiếng với bút danh Lê Vĩnh Hoà.

Trong con mắt của bạn học Trường Nguyễn Văn Tố, Ðoàn Thế Hối trở thành nhà văn nổi tiếng là lẽ đương nhiên, còn tôi trở thành nhà văn mới là điều lạ. Chính mình đôi lúc cũng thấy lạ cho mình, huống chi là bạn bè.

Sao Ðoàn Thế Hối không lấy bút danh gì khác mà lấy bút danh Lê Vĩnh Hoà. Không gặp nhau để hỏi, nhưng tôi biết trong một ngày nghỉ hè, Ðoàn Thế Hối đưa tôi về thăm gia đình anh. Nhà của Hối ở là Vĩnh Hoà Hưng, tỉnh Rạch Giá. Hối lấy tên làng làm bút danh của mình. Tôi đoán và chắc là đúng.

Sau ngày tôi tập kết, Ðoàn Thế Hối vào Sài Gòn hoạt động. Ðoàn Thế Hối nhanh chóng nổi tiếng với bút danh Lê Vĩnh Hoà trên các báo Nhân Loại, Tiến Thủ, Quyền Sống, Bông Lúa, Phụ Nữ Diễn Ðàn... với những truyện ngắn: Trăng lu, Chiếc áo thiên thanh, Nước cạn, Mưa rơi trên sông, Hội banh Xóm Giếng...

Năm 1959, Lê Vĩnh Hoà bị chính quyền Ngô Ðình Diệm bắt, ngồi tù suốt 5 năm. Năm 1964 ra tù, anh vào chiến khu miền Tây, tiếp tục viết một loạt truyện ngắn trên mặt báo của chiến trường: Những người cùng xóm, Chuyện một người săn máy bay, Trước đêm tập kết, Trông ra tiền tuyến, Mấy trang nhựt ký bên chiến hào...

Từ miền Ðông (R) tôi gởi một lá thư dài về miền Tây cho Lê Vĩnh Hoà, nhắc lại cây đàn “Banjo” và nhiều chuyện.

Một năm sau, mùa nước nổi ở chiến trường Ðồng Tháp, tôi nhận được thư của một bạn văn nghệ ở miền Tây cho biết Lê Vĩnh Hoà đã nhận được thơ mừng lắm, chưa kịp viết thư trả lời thì hy sinh trong trận đánh lớn ở Thanh Thuỷ - Xẻo Giá - Cần Thơ, mùng 7 tháng Giêng năm Ðinh Mùi 1967... (hết trích).

Nhà văn Lê Vĩnh Hoà đã để lại nhiều tác phẩm xuất sắc mang nhiều dấu ấn qua từng thời kỳ của cuộc chiến tranh cứu nước. Với tôi, giọng văn của Lê Vĩnh Hoà như giọng nói của anh rất quen thuộc, ngọt ngào, nhỏ nhẻ, buồn buồn, dễ vào lòng người.

Năm 2001, về lĩnh vực văn hoá nghệ thuật, Chính phủ đã tặng Giải thưởng Nhà nước cho Nhà văn Lê Vĩnh Hoà, thật xứng đáng.

Khi ra trường và khi tập kết, mỗi người, mỗi ngành, mỗi công tác tương lai mọi người khó đoán trước được.

Sau năm 1975, mỗi năm thầy trò Trường Nguyễn Văn Tố đều có buổi họp mặt vào những ngày giáp Tết./.

 

Nguyễn Bá

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.