Năm 1980, khi học chưa xong chương trình lớp 9 Trường Bổ túc văn hoá Công nông huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Minh Hải, thì duyên đời đã ban cho tôi cả cuộc đời viết văn, làm báo.
Hồi đó, Ngô Hải (nguyên Phó tổng Biên tập Báo Cà Mau, đã mất) và anh Trần Thanh Quang, nguyên Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Bạc Liêu, công tác tại Tỉnh đoàn Minh Hải và có một thời gian tá túc ở nhà tôi để làm ruộng tự túc cho cơ quan, thấy tôi mê viết văn, thế là hai người giới thiệu tôi với Báo Minh Hải. Và từ đó, tháng 7/1980, tôi trở thành phóng viên Báo Minh Hải.
Hồi đầu, trụ sở báo đóng tại nhà Công tử Bạc Liêu bây giờ. Sau đó thì dời xuống Xí nghiệp in Bạc Liêu ngày nay. Và sau nữa thì dời đến ở khá lâu tại ngôi nhà cổ, kiểu Pháp. Nó là toà hành chính tỉnh đầu tiên của chính quyền Pháp thuộc, trên đường Trần Phú, đối diện với UBND thành phố Bạc Liêu bây giờ.
Hồi học Trường Công nông ăn uống vất vả đã đành, mà khi tôi về Báo Minh Hải, trở thành nhà báo thực thụ, ăn uống vẫn vất vả như xưa. Nó vất vả là tại cái thời vất vả. Lúc đó tình hình chung của đất nước vô cùng khó khăn, một bộ phận Nhân dân ăn cơm độn khoai sắn, bột mì.
Ðoàn phóng viên Báo Minh Hải trong lần tham quan Ðà Lạt. Ảnh tác giả cung cấp
Hồi ấy không gọi là lương mà gọi là sinh hoạt phí, mỗi tháng tôi được 24 đồng. Trừ tiền gạo, đóng tiền ăn là đã gần hết. Cơ quan Báo Minh Hải hồi đó có bếp ăn tập thể, do chị Hiếu phụ trách. Tới bữa ăn, chị Hiếu dọn cho các nhà báo một thau cơm ẩm vàng - đặc trưng gạo của thời kỳ bao cấp (do lúa phơi không khô, nhập vào các kho lương thực của Nhà nước bị ẩm mốc). Còn thức ăn là đúng 2 con cá phi kho cho mỗi người và 3 người được một tô canh cải xanh lõng bõng mà chúng tôi gọi là “canh đực”. Chị Hiếu có kiểu kho cá rất nhiều nước, lõng bõng như nấu canh, để anh em chan nước cá kho mà lùa cơm. Sức vóc tuổi 20 chúng tôi ăn bữa cơm chị Hiếu như “cọp ăn bù mắt”, đành phải ứng xuất ăn của buổi chiều. Và khi chiều mà không có “độ” thì đành chịu đói hoặc ăn cơm với nước đá cục. “Bần cùng sinh đạo tặc”, đã vậy thì “chúng ông” tổ chức ăn trộm rau muống của chi đoàn trồng cải thiện ở quanh cơ quan, hay ăn trộm báo lưu trữ của toà soạn mà mang ra chợ bán mua tương, chao ăn đỡ. Và sau đó thì bị chi đoàn quần cho nhừ tử. Vậy đó mà tối, các nhà báo răm rắp lên bàn viết, tơ tưởng chuyện làm ăn bạc chục, bạc trăm triệu của huyện, của tỉnh...
Cánh phóng viên Báo Minh Hải thời đó chỉ tròm trèm 20 tuổi, đa số độc thân. Ăn thì như “tằm ăn lên”, “ghệ” thì “nhóc nhách” nhưng thường xuyên trong túi không có lấy một đồng. Bữa nào ăn cơm có Võ Ðắc Danh (một gã nhà văn, hiện đang nổi tiếng trên văn đàn cả nước), Ung Ngọc Quân, Hồ Bình Ðại... thì kể như chúng tôi chỉ no 50%, vì đó là ba kẻ phá mồi, toàn xài “đũa nằm”. Ðược cái Võ Ðắc Danh kiếm mồi rất hay, với chiếc máy ảnh gián tiếp trên vai, nó vừa đi viết tin vừa chụp ảnh dạo. Nó lặn mất tăm ở dưới huyện hàng tuần lễ, khi “chồi đầu lên” toà soạn, mang theo một bao lủ khủ nào cá khô, cá tươi rồi thảy xuống nhà bếp mà chiêu đãi anh em. Buổi sáng Ðắc Danh chỉ cần một ly nước, loại ly dùng để uống cà phê đen, còn gọi là ly “xây chừng” là có thể giải quyết xong chuyện vệ sinh cá nhân. Nghĩa là nó tọp nửa ly nước để xúc miệng, số còn lại nó chấm hai ngón tay quẹt lên mắt và đổ vào lòng bàn tay chà lên mặt là xong, là hô toáng lên: “Cà phê nghen”. Rủ ỏm tỏi vậy chứ thường xuyên Võ Ðắc Danh không có tiền trong túi. Tất cả cánh phóng viên trẻ Báo Minh Hải ngày ấy là con nợ thường xuyên của Cửa hàng ăn uống Quốc doanh số 12.
Hôm nào mà có “ghệ” lên thăm là kể như anh nhà báo trở thành kẻ khốn khổ. Hồi đó đâu có điện thoại di động, các nàng thường lên "bất tử". Thế là đưa em về cơ quan ngồi chơi rồi chạy đi bán sổ mua hàng nhu yếu phẩm cho con buôn ngồi phe phẩy đầy ở cửa hàng tổng hợp trong bộ dạng thập thò như kẻ trộm. Bán xà bông, bột ngọt cũng phải để lại xài trong tháng nên số tiền thường đủ dẫn em đi một chầu cà phê. Nói cho hết mới thấy tội nghiệp anh nhà báo thời đó, đưa nàng vào quán rồi, hỏi em uống gì, tự nhiên đi nhé, đến lượt mình thì gọi ly trà đá rồi nói láo, mặt sượng ngắt: Anh mới uống cà phê với thằng bạn hồi nãy!
Hồi đó trước mặt cơ quan Báo Minh Hải là Công viên Hàng Me. Ðó là một trong hai công viên được xây dựng vào thập niên 80 của thế kỷ XX. Có thể gọi đó là hai công trình vui chơi công cộng đồ sộ nhất của chế độ mới cho thủ phủ tỉnh Minh Hải. Công viên khánh thành xong thì Nô-en tới, nam phụ lão ấu từ trong quê lên, dân thị xã đổ ra chen chân không lọt, các băng đá ngồi chen chúc kín người, các dịch vụ ăn uống, chụp ảnh dạo nở rộ... vui đến nức lòng. Họ vui cũng phải, vì hồi đó thiếu cái để vui, để mở hội, tựu trung là thiếu văn hoá để hưởng thụ. Cơ khổ, sau Nô-en đó thì công viên biến thành nơi làm ăn của bọn con buôn, bán đồ lậu như quần áo cũ, thuốc lá và nhiều nhất có lẽ là gái ăn sương. Mà họ đông lắm, khi đêm xuống, dưới ánh đèn công viên họ lộng lẫy như hoàng hậu, nhưng ban ngày họ trải chiếu dưới gốc me ngủ gật ngủ vùi, son phấn rẻ tiền trôi hết, mặt mày mốc thết, hốc hác, trông mà phát sợ. Không chỉ gái ăn sương mà kẻ trộm cũng nhiều, sơ sẩy là họ lẻn vào cơ quan lấy sạch mùng mền. Tôi đã từng là nạn nhân của họ (bị lấy cái mùng), phải "ngủ đậu” 3 tháng với Võ Ðắc Danh để chờ má tôi chắt mót mua cho cái khác.
Nhớ một đêm, tôi cùng Hoạ sĩ Doãn Binh tình cờ đi vệ sinh cùng lúc, Binh hô toáng lên: “Trong nhà bếp có kẻ trộm”. Rồi nó chụp cây củi ném vào, tôi bật công tắc điện lên thì phát hiện một người đàn ông chừng 40 tuổi, gầy gò xanh xao, ông thều thào: “Tôi đói quá!”. Thì ra ông ta lẻn vào để ăn trộm cơm nguội của chị Hiếu. Từ trong miệng ông ta rơi ra những hạt cơm đầy máu do cây củi của Doãn Binh ném trúng mồm. Tôi rụng rời, dù biết Doãn Binh vô tình, nhưng đó là nhát dao của niềm đau nhân thế cắm vào tim tôi đến hết cuộc đời.
Tôi được phân công làm phóng viên theo dõi mảng tiểu thủ công nghiệp nên la cà vào các hợp tác xã sản xuất đinh, dây chì, xà bông, sửa chữa máy suốt, các lò đường... Hồi đó chỉ có thành phố Hồ Chí Minh mới có công nghệ sản xuất xà bông bột, còn ở Bạc Liêu là làm xà bông bánh, từ cơm dừa, hay còn gọi là xà bông cục. Vậy mà quý lắm, mặc dù mang ra giặt đồ nó ăn mòn tay, chảy máu, còn đem gội đầu thì nó nhớt nhợt. Nó quý là bởi thời đó các mặt hàng nhu yếu phẩm cực kỳ khan hiếm. Còn lò đường thì sản xuất ra loại đường thô từ mía, mà dân gian gọi là đường chảy. Từ thứ đường này người ta đem nấu bánh, nấu chè với cái màu vàng đặc trưng của nó và trở thành dấu ấn trong văn hoá ẩm thực thời bao cấp. Tất cả mặt hàng các hợp tác xã sản xuất đều phải giao nộp cho hệ thống mậu dịch quốc doanh xã hội chủ nghĩa, nếu bán ra ngoài thì gọi là tuồn hàng ra gian thương, tội nặng lắm. Ðể từ đó hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa phân phối lại cho cán bộ và Nhân dân, bằng sổ mua hàng và tem phiếu. Có nhiều chuyện buồn cười lắm, nhìn vào sổ mua hàng, thấy hằng tháng cán bộ được mua đến mấy chục mặt hàng, giá rẻ, chênh lệch so với chợ đen gấp nhiều lần, nhưng khi xách sổ đi mua hàng, thì hỡi ôi, năm - sáu người được phân phối một cái ruột xe đạp, cả chục người được một cái mùng. Thế là quyền biến, đợt này anh mua, đợt sau tôi mua. Còn khổ phần mùng thì biếu cho mấy chị cơ quan làm băng vệ sinh, vì hồi đó cái khoản này chị em gặp rất nhiều khó khăn.
Cán bộ, phóng viên Báo Minh Hải chụp ảnh lưu niệm. Ảnh tác giả cung cấp
Lương phóng viên lúc ấy không đủ sống, mỗi lần đi công tác thanh công lệnh đủ chi phí tàu xe và ăn uống lúc đi, thời gian lưu trú ở cơ sở là phải dựa vào các cơ quan ở địa phương và Nhân dân mà sống. Hồi đó phương tiện giao thông đi lại rất tệ, lộ từ Cà Mau đi Bạc Liêu được làm từ thời các chế độ trước, nhỏ và trải đá đầy ổ voi, ổ gà. Mặc dù nhà báo có thẻ ưu tiên khi xếp hàng mua vé ở Bến xe Bạc Liêu nhưng từ Cà Mau đi Bạc Liêu phải mất 5-6 tiếng đồng hồ. Nguyên nhân là vừa do đường xấu vừa do những chiếc xe đò chạy rất chậm, bởi nó được chế tác từ thời công nghệ còn lạc hậu và cũng bởi nó cũ kỹ, già cỗi, thiếu sự sửa chữa hoàn chỉnh của thời buổi kinh tế khó khăn, công nghiệp lạc hậu. Thế nên, nếu từ Bạc Liêu khởi hành về Cà Mau 5 giờ sáng thì đến đích đã 12 giờ trưa, coi như trễ chuyến đò đi về các huyện vùng 2 của tỉnh Minh Hải. Các huyện vùng 2 lúc ấy gồm: Thới Bình, U Minh, Trần Văn Thời, Cái Nước, Phú Tân, Ngọc Hiển, Ðầm Dơi. Từ Cà Mau đi các huyện này chủ yếu là tàu đò, và nó khởi hành từ Cà Mau đến gần một ngày mới đến trung tâm các huyện lỵ, bởi vì đó cũng là những phương tiện giao thông già cỗi, chậm chạp.
Sau khi phụ trách viết mảng tiểu thủ công nghiệp 1 năm thì tôi được phân công làm phóng viên thường trú. Huyện đầu tiên tôi được phân công về là huyện Cái Nước. Mỗi lần đi công tác huyện là mất 2 ngày, tiền tàu xe, tiền ăn là đi tong khoản tạm ứng cho 15 ngày xuống huyện. Thế là 15 ngày còn lại, không có cách nào khác, anh nhà báo lại phải dựa vào cơ quan huyện và Nhân dân trong huyện mà sống. Hồi đó các cơ quan huyện còn khó hơn tỉnh về tài chính. Ở ngoài Bắc, cán bộ tỉnh xuống huyện là phải mang gạo theo hoặc phải nộp vào cơ quan mình thường trú một khoản kinh phí cho suất ăn; còn ở Minh Hải thời đó không ai nhận tiền, nhận gạo của cán bộ tỉnh bao giờ. Việc này tạm hiểu là nó xuất phát từ tố chất hào phóng, nghĩa hiệp của vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhưng có điều là anh cán bộ tỉnh phải nhảy vào “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với địa phương. Việc này có khẩu hiệu hành động cách mạng chứ chẳng phải chơi. Hồi đó tôi thường được bố trí ăn ở tại Văn phòng Huyện uỷ hoặc Ban Tuyên huấn huyện. Xuống tới là tôi cùng với mấy anh chị đi chẻ củi nấu cơm rồi cùng anh Tư Bình, cán bộ Ban Tuyên huấn huyện đi đặt lờ, đặt lọp. Cũng may, thuở ấy tôm cá nhiều lắm. Vài tiếng sau khi đặt lờ, đi thăm, cơ man nào là cá sặt rằn, sặt bướm, cá lóc, cá rô, thậm chí có bữa còn bắt được vài con rùa, rắn to mỗi con cả ký. Sau đó chỉ hái mớ bông súng non, bạc hà ở cạnh cơ quan, vậy là có một bữa cơm thịnh soạn, ngon hơn gấp nhiều lần bữa cơm của chị Hiếu ở Báo Minh Hải. Phương châm “Cùng ăn, cùng ở, cùng làm” nó hay lắm đối với anh nhà báo mới tập tễnh vào nghề như tôi. Ðã cùng ăn, cùng ở, cùng làm thì rất dễ đồng cảm. Ðồng thời anh nhà báo sống trong đời sống sự kiện nên rất dễ nắm bắt tình hình, có nguồn có cội đời sống kinh tế, văn hoá - xã hội của địa phương.
Một bận, tôi mới xuống, chế Năm Nga, Chánh Văn phòng Huyện uỷ, cười rất hồn nhiên rồi bảo: “Ê nhà báo, mày vô đây chế tặng mày cái này!”. Tôi vào văn phòng, chế Năm mở tủ ra đưa cho tôi chiếc nón tai bèo mới tinh. Dưới vành mũ nón còn thêu dòng chữ đỏ “Chế Năm Nga tặng em Trung Nghĩa”. Tôi không nói câu nào mà ngồi thừ ra, ôm món quà mà ứa nước mắt. Ðó thật sự là món quà quý, thời đó vải vóc đắt đỏ khan hiếm, mua được một khúc vải ly phăng màu xanh để may nón tai bèo là không phải dễ. Và nó càng quý hơn là chế Năm ngồi nhiều đêm để may nón và thêu 7 chữ tặng tôi. Thời đó không phải ai cũng may, thêu được, thường thì những người chị xuất thân làm cán bộ thoát ly đi kháng chiến mới học được kỹ năng này.
Tôi xúc động bao nhiêu thì chế Năm Nga hồn nhiên bấy nhiêu. Ðó là cách cư xử rất bình thường đối với mấy chị cán bộ thời ấy, phẩm chất này được trui rèn trong cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đầy gian khổ, hy sinh.
Một bữa anh Năm Thạo, Phó ban Tuyên huấn Huyện uỷ, nháy mắt: “Ê, chiều hai anh em mình rủ thêm thằng Tư Bình về nhà anh. Ðêm hôm anh đổ lọp được 2 con rùa, chắc hơn 2 kg, để lâu nó ốm, tối nay ba anh em mình “trảm” nó cho rồi”.
Nhìn đôi mắt tinh ranh của Tư Bình, tôi linh cảm rằng không đơn giản chuyện anh Năm Thạo rủ về nhà ăn rùa. Chiều mưa dầm lê thê, tôi ngồi giữa chiếc xuồng ba lá cho Tư Bình chèo, còn anh Năm thì ngồi trước mũi phì phèo điếu thuốc gò to bằng ngón tay để xua bầy bù mắt và bầy muỗi đang rượt theo. Chúng tôi đi từ sông Cái Nước rồi rẽ vào kênh, qua lung bàu... đến vùng nông thôn heo hút mới tới nhà anh Năm Thạo. Tháng mưa, đất vùng 2 của tỉnh Minh Hải thời ấy trông u buồn mà chan chứa hồn đất, tình quê. Ðồng nước nổi mênh mông, những bờ bao của những mảnh vườn thửa ruộng đầy chuối, dừa. Giữa ruộng mọc đầy bông bồn bồn, nông dân phát bồn bồn, cỏ ruộng rồi cào thành bờ giồng và cấy những giống lúa rất dài ngày và năng suất dăm ba giạ một công. Ðược cái, dưới làn nước là từng bầy cá bổi, cá rô, cá lóc... lội thành đàn. Lại có rùa, lươn, rắn... nhiều không sao kể xiết. Làm nên một vùng đất trứ danh cá đồng.
Xuồng ghé bến trước sân nhà, anh Năm Thạo nháy mắt cho Tư Bình, bảo: “Em dẫn Nghĩa vào nhà, rồi bắt rùa rang muối đi, anh đi công việc một chút”.
Số là lương thực rất thắt ngặt, Nhà nước ra chủ trương cấm cán bộ uống rượu và cấm nông dân đặt rượu. Năm Thạo phải chống xuồng lòn lách trên một con kênh nhỏ ngoằn ngoèo, xa hơn một cây số để đến nơi cháu anh che chòi trốn chính quyền mà đặt rượu lậu.
Bữa nay Năm Thạo tìm cho ra 2 lít rượu là bởi cái việc anh phải làm mà tôi biết được trong tiệc rượu đêm đó. Số là tôi đã thường trú huyện Cái Nước một năm, đây là tháng cuối tôi phải rời địa bàn, luân chuyển theo quy định của toà soạn, đi nhận thường trú huyện Hồng Dân. Ðây là tiệc liên hoan tiễn tôi mang đặc thù thời buổi cấm rượu. Ðối với dân Cà Mau, Bạc Liêu từ xưa giờ nó thế, những cuộc chia tay, những mối giao tình được thể hiện bằng những lời nói rất kiệm, mà cái tình nghĩa, cái khí khái ứng xử có khi bằng một vài ly rượu là cũng cạn lời. Ðêm đó Năm Thạo, Tư Bình uống thật say để tiễn đưa một thằng em về xứ của nó. Cuối buổi tiệc, Năm Thạo nói: “Anh Bảy Diệp gửi cho em chai dầu Huê Lạc - một thứ dầu gió xa xỉ thời đó - Bảy Diệp là Phó bí thư Huyện uỷ. Hoá ra cuộc “nhậu lậu” của ba anh em tôi, Thường trực Huyện uỷ cũng biết!
Nhờ làm phóng viên Báo Minh Hải mà cái tình đời luôn sưởi ấm tâm hồn tôi, nó ấp ủ nên một nhân cách để bây giờ nếu ai có hỏi, tôi vẫn nói rằng nếu có kiếp sau tôi lại xin được làm nhà báo.
Hôm nay tôi kể những kỷ niệm của 27 năm gắn bó với Báo Minh Hải. Ðó là những kỷ niệm nhỏ, dung dị và rất đời thường tại một tờ báo dung dị và rất đời thường nằm trong rất nhiều tờ báo Ðảng địa phương của cả nước, thế nhưng Báo Minh Hải đã làm được hai điều hoàn toàn không bình thường, nếu như không muốn nói đó là sự vĩ đại.
Thứ nhất, vào năm 1986, khi Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh chủ trương tự do ngôn luận, dân chủ hoá, lấy dân làm gốc bằng việc viết báo lấy tựa đề “Những việc cần làm ngay” ký tên “NVL” thì Báo Minh Hải đã đón nhận và làm theo một cách quyết liệt và đầy bản lĩnh, vượt qua những rào cản của địa phương bằng việc tổ chức thông tin chống tiêu cực, tạo ra một không khí công luận dân chủ chưa từng có. Những vụ án lớn mà Báo Minh Hải phanh phui như: vụ Lữ Anh Dồi; Bí thư Hai Nghé ở xã Vĩnh Trạch; vụ Giám đốc Sở Giao thông; Giám đốc Tám Khôi, Công ty Lương thực... tạo ra những luồng dư luận rộng lớn và sôi sục trong và ngoài tỉnh. Nhân dân phấn khởi trước không khí tự do ngôn luận và tín nhiệm tờ báo Minh Hải. Quan tham, cường hào mới thì run sợ, báo Minh Hải thông tin tới đâu là quan tham, cường hào mới bị khai trừ, bị khởi tố tới đó. Báo Minh Hải trở thành một tờ báo giương cao ngọn cờ dân chủ, biến mình thành tờ báo có sức mạnh khôn lường trong thực thi tự do ngôn luận và đấu tranh chống cái ác, cái xấu và dân chủ hoá.
Hai là, đó là tờ báo có thể ví như chiếc nôi rèn luyện lực lượng báo chí vùng Bán đảo Cà Mau. Tôi đã khảo sát sơ bộ ở đồng bằng sông Cửu Long này ít thấy cái lò nào lạ như cái lò Báo Minh Hải. Ða số những người làm báo trực tiếp tại Báo Minh Hải nếu không nổi tiếng thì cũng làm lãnh đạo. Báo Minh Hải đã rèn ra các nhà văn Việt Nam (Võ Ðắc Danh, Bích Ngân, Phan Trung Nghĩa); 8 ông Tổng Biên tập (Phạm Văn Tri, Bảy Chánh, Phan Anh Tuấn, Lê Ðức Khanh, Sáu Thi, Duy Hoàng, Nguyễn Bé, Nguyễn Chiến); 3 ông Phó tổng Biên tập báo (Chí Thành, Lê Hiền, Ngô Hải); 2 ông Giám đốc Ðài Phát thanh - Truyền hình (Ðỗ Kiến Quốc, Phạm Phi Thường); 4 ông Phó chủ tịch Hội Nhà báo tỉnh (Ðỗ Kiến Quốc, Ngô Hải, Phan Trung Nghĩa, Nguyễn Thanh Sơn); 1 ông Chủ tịch Hội Văn học - Nghệ thuật (Trần Chí Thành) và rất nhiều nhà báo thành danh khác cho báo chí miền Nam như: Võ Ðắc Danh, Ðào Thương, Hồng Hạnh...
Nhà văn Phan Trung Nghĩa