ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 19-4-25 07:36:55
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ông Hai khuyến học

Báo Cà Mau (CMO) Biết ông đã lâu, vậy mà hôm rồi, ông nói, tôi mới giật mình: “Chú sanh năm 1947, tuổi mụ là 77, tuổi Nhà nước 76”. Ở đất Thới Bình này, hầu như ai cũng rành về ông - Phạm Văn Quang, Chủ tịch Hội Khuyến học của huyện. Ði tới đâu, bà con, thầy cô giáo, học sinh đều trìu mến, rôm rả gọi là ông Hai, anh Hai, chú Hai. Không xuất thân từ ngành giáo dục, ấy vậy mà ông đã dành nửa cuộc đời cho công tác khuyến học, khuyến tài. Sắp tới, ông tính: “Làm chừng nào hết nổi thì thôi, còn nhiều hoàn cảnh học sinh khó khăn lắm, mình không tiếp tụi nó, rồi học hành dang dở, tương lai mấy cháu sẽ ra sao”.

Năm 1994, ông nhận chức Hội trưởng Hội Phụ huynh cùng lúc 2 trường: Tiểu học và THCS xã Khánh Thới (nay thuộc xã Thới Bình - PV). Chuyện này cũng có nguyên do, như lời ông kể: “Học hết chương trình phổ thông 10 năm, làm ngành thương nghiệp ở huyện, sau đó về hợp tác xã ở Khánh Thới, thấy cảnh tụi nhỏ học hành vất vả quá, mình cũng hụ hợ chút đỉnh cho trường, cho học sinh, chắc anh em thấy vậy rồi tín nhiệm”.

Theo hồi nhớ của ông, Khánh Thới khi đó là “đất cầm trâu” với mút mắt cánh đồng năn hoang vu, người dân khoét lỗ cấy lúa, trông đợi may rủi để có cái ăn. Bà con ai cũng nghèo, chuyện học hành được chăng hay chớ. Nhận nhiệm vụ, ông dợm nghĩ, nếu tụi nhỏ không học thì cũng sẽ như tía má nó, biết chừng nào mới khá nổi.

Ông hay dẫn lời dạy của Bác Hồ để động viên: “Dốt cũng là giặc. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Bà con nghĩ coi, tụi nhỏ mà dốt thì chừng nào mới thoát cảnh nghèo luẩn quẩn”.

Cũng từ dạo ấy, ông Hội trưởng Hội Phụ huynh trường làng xăng xái khi cuốc bộ, lúc bơi xuồng, rồi xắn quần vẹt năn lội sình đến động viên học sinh khó khăn, có nguy cơ bỏ học. Hành trang mang theo là sách vở, bút bi, quần áo, dép và cả gạo, bởi nói như ông: “Ði vận động, thuyết phục người ta mà chỉ “nước miếng suông” thì ăn thua gì. Ðứa nào thiếu gì, chú móc ra liền cái rụp, hết bàn lùi. Gia cảnh nào túng thiếu quá, mình gởi ít gạo cho người ta”.

Tôi hỏi ông: “Hồi đó, cách đây 30 năm lận, mà vốn mạnh dữ chú Hai!”. Ông cười khì: “Mạnh ôn gì. Chú cũng đi xin, người nào, chỗ nào có mình xin. Xin để giúp tụi nhỏ nên người ta thương, thông cảm, ủng hộ. Vậy đó”.

Sau 10 năm, khi phong trào khuyến học, khuyến tài của 2 ngôi trường làng Khánh Thới trở thành điểm sáng của toàn xã, toàn huyện, ông già “lên chức” Phó chủ tịch Hội Khuyến học xã, ấy là năm 2004. Quy mô công việc cũng khác, ông phải quán xuyến toàn bộ 11 ấp, 9 điểm trường. Thời điểm này, hội khuyến học các cấp mới hình thành, ngoài kinh nghiệm bản thân, ông phải nghiên cứu, học tập thêm để phục vụ công tác.

Ðiều kiện công tác cũng khá hơn, dù chưa có lộ, xe, nhưng được đi vỏ lãi, chỗ nào ngặt quá thì cuốc bộ. Ông đi miết, nghe ngóng biết đứa nào khó khăn là tới liền. Hành trang của ông vẫn lỉnh kỉnh những món quà. Quãng thời gian đó, ông thấy vui vì bà con mình đã dần thay đổi suy nghĩ, quan tâm nhiều hơn đến chuyện học hành của tụi nhỏ; người cho gạo, người cho quần áo, người góp sách cũ, có chỗ tài trợ tập vở mới.

Nghĩ ngợi một chút, ông khẽ nói: “10 năm làm hội trưởng, rồi “lên chức” Phó chủ tịch Hội Khuyến học xã, bảy năm rưỡi không một đồng lương, chỉ có khoản hỗ trợ hơn 50 ngàn đồng một tháng”. Tôi tưởng ông kể khổ, nhưng không: “Chú làm không nặng nề quyền lợi cá nhân. Nói cho bây biết chuyện này để thương thím Hai với mấy đứa con chú ở nhà, có thiếu gì là bả với mấy đứa nhỏ ủng hộ cái rụp liền. Có khi tới chỗ nhà học sinh, thắt ngặt quá, chú cũng có ít đỉnh dằn túi gọi là chia sẻ, giúp đỡ người ta”.

Tay ngang, ông lần lượt tham gia công tác khuyến học, khuyến tài từ trường làng đến Chủ tịch Hội Khuyến học huyện. Mong muốn của ông cụ thể, cháy bỏng: “Làm sao cho tụi nhỏ không bỏ học, khuyến khích thế hệ trẻ chăm lo học tập, mà phải học đến nơi đến chốn, để rồi tự giúp được mình, gia đình, sau đó có điều kiện, khả năng đóng góp cho xã hội”.

Ông kể, có lần đi Cần Thơ thăm bà con. Có em Nguyễn Văn Năng ngày xưa học trường Khánh Thới, nhận ra ông. Vậy là sau vài cuộc gọi, tụi nhỏ trường làng ngày xưa giờ đã chững chạc, thành đạt, xúm lại tíu tít bên ông. Tụi nó nhắc, ông cũng ơ hờ chớ làm sao nhớ nổi: Hồi xưa, nhờ chú Hai cho bộ sách, đôi dép, cái quần, túm gạo... Nhờ chú Hai mà tụi con được như bây giờ. Ông già cười khà khà: “Nhờ bây quyết chí học, chớ chú có công cán gì mà kể”.

Lần đó, ông được tặng riêng 10 triệu đồng, nhưng không vui bằng lời hứa nghĩa tình: “Tụi con sẽ dành một khoản, mỗi năm góp về quỹ khuyến học, khuyến tài của huyện, ủng hộ các em khó khăn”.

Ông đúc kết: “Làm công việc này, khó nhất là đi vận động gây quỹ. Mà nói thẳng ra là mình đi xin, xin những người, những đơn vị có của, có lòng”. Ông vừa có cái duyên, vừa may mắn khi đi xin hầu hết đều được đối đãi bằng thiện cảm, chân tình. Tất nhiên, cũng có lúc trúng, lúc trật: “Xin không được thì mình chỉ buồn vì nguồn lực hỗ trợ cho tụi nhỏ không được đầy đủ, chớ không giận hờn ai hết”. Như sực nhớ điều gì, ông trầm ngâm: “Thường niên, Huyện hội vận động khoảng 3 tỷ đồng. Ðó là mình quy hết lại thành tiền, chớ đủ thứ hiện vật, quà cáp. Cái nào cũng quý, tấm lòng nào cũng đáng trân trọng. Với chú, một đồng nghĩa tình của người ta gởi gắm cũng phải chuyển đến tận chỗ, tận tay cho học sinh”.

Rồi ông thở dài: “Chưa có cái đận nào nó dữ dội, khốc liệt như lúc dịch Covid-19 vừa rồi. Huyện Thới Bình có gần 70 đứa mồ côi. Ðó là chưa kể cảnh tụi nhỏ có cha mẹ làm công nhân tỉnh ngoài, phải gởi ông bà, họ hàng chăm lo. Mà bây coi, đâu có ai chu đáo, sát sao bằng cha mẹ. Vậy đó, không lo sao được”.

Sau dịch, ông lặn lội miết để vận động, nhưng: “Có đơn vị đã đồng hành nhiều năm, nguồn ủng hộ mạnh, bây giờ công nhân 500 cắt còn 300, mình cũng ngại. Người ta hứa thòng câu “hết sức tranh thủ”, còn mình thì hy vọng. Vậy đó”.

Ðang chuyện mình, ông kéo tôi: “Ði, đi với chú. Có học sinh này hoàn cảnh khó khăn dữ lắm”. Cô giáo Võ Thị Bé Hai, Trường THCS thị trấn Thới Bình, chủ nhiệm em học sinh mà ông vừa nhắc, dẫn đường. Vòng vèo về ấp Xóm Mới, xã Biển Bạch Ðông, em Nguyễn Thị Tố Quyên đã đứng đợi đón khách. Tố Quyên năm tới lên lớp 7, học lực giỏi. Chị Nguyễn Thị Lợi, mẹ em Quyên bị bệnh, mù loà đôi mắt trước khi sinh ra em. Éo le hơn khi cha em cũng bỏ đi. Mẹ con Quyên được ông ngoại cho nền đất cất nhà ở tạm. Ông ngoại Quyên cũng mù, thương binh ¼. Khi Quyên học hết trường làng, mẹ em biểu: “Nghỉ học thôi con”, Quyên khóc. Người mẹ mù thương con, dắt díu lên thị trấn mướn phòng trọ học. Vì là học sinh lớp 6 đầu cấp, nhà trường chưa nắm rõ hoàn cảnh, Quyên cũng chưa nhận được hỗ trợ nhiều.

Ông Phạm Văn Quang thăm, nắm bắt hoàn cảnh gia đình em Nguyễn Thị Tố Quyên, học sinh Trường THCS thị trấn Thới Bình và tìm hướng hỗ trợ, giúp đỡ để em Quyên có điều kiện tiếp tục học hành.

Nghe chuyện, ông Hai ngó Quyên ân cần: “Ðầu năm sau, con thiếu gì cứ nói với ông, ông hỗ trợ hết mình”. Quay sang người mẹ tật nguyền, ông căn dặn: “Mẹ cháu ráng ủng hộ cháu học, đời mình khó rồi, phải cho con học để tấn tới, để có tương lai tốt đẹp. Có thầy cô giáo, nhà trường, tụi chú và cộng đồng tiếp sức”. Quyên thỏ thẻ: “Con muốn được đi học lắm. Con cảm ơn cô chú, cảm ơn ông Hai”.

Ông căn dặn tôi: “Viết gì thì viết, nhớ nói hoàn cảnh của bé Quyên cho rõ ràng, cụ thể, từ đó những người, những chỗ có của, có lòng người ta biết tới, may ra có thêm sự hỗ trợ, giúp đỡ nghen anh phóng viên. Còn chuyện của chú hứa, chú mần liền, để vầy không ổn một chút nào”.

Tôi chợt nhớ kỷ niệm của tôi và ông năm trước, trong một cơn mưa tầm tã về xã Trí Lực thăm 2 em học sinh mồ côi cả cha lẫn mẹ vì dịch Covid-19. Ông già cũng nói y chang vậy. Sau đó, bài viết khởi đăng, các em nhận được sự trợ giúp của cộng đồng. Bên kia đầu dây rổn rảng tiếng cười của ông: “Chú mừng cho tụi nhỏ quá con ơi!”...

Ngẫm ra, đúng như ông nói, thành tựu trong hành trình ngót 30 năm làm công tác khuyến học, khuyến tài của ông không phải là bằng khen, giấy khen, mà là niềm vui khi thấy những hoàn cảnh học sinh khó khăn được tiếp sức đến trường, có cơ hội chạm vào tương lai tươi sáng. Không nói quá, khi gọi ông là người bảo trợ con chữ cho vùng đất Thới Bình, mảnh đất giờ đây đã xây được nền móng, truyền thống hiếu học vững chắc./.

 

Bút ký của Phạm Quốc Rin

 

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh - Bài 2: Bước chuyển mình của đô thị hoá nông thôn

Khác với sự trỗi dậy mạnh mẽ của các đô thị động lực, như TP Cà Mau, Sông Ðốc và Năm Căn, những làng quê, nơi mà quá trình đô thị hoá đang diễn ra một cách lặng lẽ lại trở thành nơi lý tưởng, đáng sống, ước mơ của nhiều người. Cà Mau, từ một bức tranh tưởng chừng đơn điệu, với ruộng lúa, ao tôm, cánh đồng hoa màu và những con rạch hiền hoà, nay khoác lên mình diện mạo mới, hiện đại hơn, thuận tiện hơn, nhưng vẫn giữ được bản sắc miền Tây sông nước.

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh - Bài 3: Giải mã “điểm nghẽn” để khơi thông tiềm năng

Tốc độ đô thị hoá của Cà Mau tăng trung bình 1,3%/năm, phản ánh sức hút và tiềm năng nội tại. Tuy nhiên, con số này vẫn chưa tương xứng với tiềm lực vốn có và còn cách biệt so với khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Quá trình đô thị hoá tại Cà Mau vẫn đang đối diện với những nút thắt cần tháo gỡ.

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh

Tỉnh Cà Mau đang kiến tạo một nền tảng vững chắc để đô thị hoá trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Ðến cuối năm 2024, tỷ lệ đô thị hoá của tỉnh đạt 33,04%, với 22 đô thị, cao hơn mức trung bình của đồng bằng sông Cửu Long (32,0%) và vượt một số tỉnh lân cận, như Vĩnh Long (28,7%), Hậu Giang (30,5%)... Với TP Cà Mau, Năm Căn và Sông Ðốc làm tam giác động lực, tỉnh không chỉ mở rộng không gian đô thị mà còn tạo sức bật kinh tế toàn diện. Không chạy theo đô thị hoá ồ ạt, tỉnh tập trung xây dựng nền tảng hạ tầng vững chắc, phát huy lợi thế kinh tế biển, logistics và dịch vụ thương mại để trở thành điểm sáng mới của vùng Tây Nam Bộ.

Khởi nghiệp “xanh” - Xu hướng phát triển bền vững - Bài cuối: Khơi thông dòng chảy

Khởi nghiệp dựa vào tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng tài nguyên bản địa của địa phương là một lợi thế. Tuy nhiên, nó cũng có nhiều thách thức cho hoạt động khởi nghiệp nói chung và khởi nghiệp “xanh” nói riêng của tỉnh. Ðể nâng tầm khởi nghiệp “xanh”, Cà Mau đang cần những chính sách hỗ trợ từ Chính phủ. Ðịa phương cũng cần chú trọng hơn đến phát triển kinh tế bền vững và hỗ trợ các mô hình khởi nghiệp “xanh”, cũng như các chính sách ưu đãi, hỗ trợ, đào tạo, phát triển cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.

Khởi nghiệp “xanh” - Xu hướng phát triển bền vững - Bài 2: "Ghi điểm" trên "sân nhà"

Khởi nghiệp “xanh” tại Cà Mau mang đến động lực, truyền cảm hứng từ những câu chuyện thực tế của những bạn trẻ đầy nhiệt huyết, mạnh dạn tận dụng sân nhà để phát huy giá trị sản phẩm kinh doanh, gợi mở nhiều cơ hội trong tiến trình khởi nghiệp.

Khởi nghiệp “xanh” - Xu hướng phát triển bền vững

Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đã trở thành xu thế chung của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là chủ trương lớn của Ðảng. Nghị quyết 52/NQ-TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị đã xác định rõ vai trò của khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, trong đó doanh nghiệp là trọng tâm của quá trình đổi mới sáng tạo quốc gia.

Hướng tới chính quyền số toàn diện - Bài cuối: Xây dựng nền hành chính kiến tạo, phục vụ

Nếu chuyển đổi số (CÐS) trong thủ tục hành chính (TTHC) là bước đột phá giúp cắt giảm phiền hà, tiết kiệm thời gian cho người dân và doanh nghiệp, thì xây dựng chính quyền thông minh lại mang tầm vóc lớn hơn. Ðó không chỉ là việc đưa công nghệ vào bộ máy quản lý Nhà nước, mà còn là một cuộc chuyển đổi toàn diện về tư duy điều hành, phương thức hoạt động và tinh thần phục vụ. Không còn cảnh văn phòng hành chính đầy ắp hồ sơ, giấy tờ, chính quyền số hôm nay đang định hình một mô hình làm việc mới: liên thông, minh bạch, gần gũi và lấy sự hài lòng của người dân làm trung tâm.

Hướng tới chính quyền số toàn diện

Hai năm liền (2023-2024), Cà Mau dẫn đầu cả nước về chỉ số phục vụ người dân và doanh nghiệp, đây là dấu ấn nổi bật của tỉnh trong công tác cải cách hành chính (CCHC). Ðể có được thành tựu này, tỉnh không chỉ đơn giản hoá thủ tục mà còn đổi mới mạnh mẽ phương thức phục vụ. Hệ thống một cửa liên thông được triển khai đồng bộ từ cấp tỉnh đến cấp xã, giúp rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ, nâng cao tính minh bạch, hiệu quả, sự hài lòng trong dân.

Tự hào vùng đất Tây Nam - Bài cuối: Biển - Dòng chảy phồn vinh

Ðịa bàn biên giới biển toàn vùng Tây Nam trải dài hơn 700 km, chiếm 1/5 tổng chiều dài bờ biển của cả nước, không chỉ là tuyến phòng thủ chiến lược mà còn là nguồn sống của hàng triệu ngư dân. Với hệ sinh thái phong phú, vùng biển này mang trong mình tiềm năng to lớn để phát triển kinh tế biển, đóng góp quan trọng vào công cuộc dựng xây đất nước.

Tự hào vùng đất Tây Nam - Bài 3: Hồi sinh Ba Chúc

Cách nay 50 năm, trong khi các địa phương trong cả nước đang bắt tay kiến thiết quê hương sau đại thắng mùa Xuân 1975 thì Nhân dân Ba Chúc lại mang thêm trên mình những vết thương của nạn thảm sát diệt chủng Pol Pot. Nếu so sánh xuất phát điểm của vùng đất thanh bình vươn lên sau chiến tranh thì Ba Chúc khởi điểm sau các vùng đất khác 10 năm, với nền tảng ban đầu: đất đai cằn cỗi, nhà cửa xơ xác, cuộc sống của người dân bấp bênh giữa đói nghèo và ký ức đau thương. Trở lại Ba Chúc hôm nay là thị trấn sầm uất của huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.