ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 20-4-25 02:16:21
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Phát huy thế mạnh kinh tế rừng

Báo Cà Mau (CMO) Kinh tế lâm nghiệp tại Cà Mau những năm gần đây có nhiều khởi sắc, thông qua các hình thức chuyển đổi sản xuất, từ giống cây trồng đến hình thức canh tác, chế biến lâm sản, nuôi trồng dưới tán rừng, tận dụng hệ sinh thái rừng để phát triển du lịch... Từ đó, mang lại nguồn lợi đáng kể, từng bước thay đổi đời sống người dân vùng rừng, cũng như các chủ rừng.

Năm 2009, khu vực U Minh Hạ bắt đầu thực hiện chuyển đổi một phần diện tích rừng tràm sang trồng keo lai bằng phương pháp lên liếp trồng tập trung, diện tích trồng keo lai đã tăng nhanh vào các năm tiếp theo. Ðến năm 2022, có trên 23.500 ha rừng U Minh Hạ được chuyển đổi từ trồng tràm truyền thống sang lên liếp trồng rừng theo hướng thâm canh tăng năng suất, chất lượng rừng (keo 11.250 ha, tràm 12.250 ha). Keo lai sinh trưởng nhanh, rừng trồng 5 năm tuổi trữ lượng bình quân từ 200-260 m3/ha, có những nơi lên trên 300 m3/ha (cây có đường kính trên 20 cm chiếm trên 35% số cây).

Hướng đi đúng cho kinh tế rừng

Ông Trần Ngọc Thảo, Giám đốc Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp U Minh Hạ, cho biết, hiện nay, đơn vị quản lý 23.966 ha. Diện tích quy hoạch trồng rừng  trên 19.400 ha. Ngoài loài cây tràm bản địa, khu vực rừng tràm đã nhập ngoại cây keo lai và tràm Úc. Trong đó, diện tích keo lai là 5.924 ha, chiếm 32%, năng suất bình quân khoảng 160-180 m3, giá trị 140-160 triệu đồng/ha; tràm thâm canh diện tích 7.622 ha, chiếm 40%, năng suất bình quân khoảng 120-150 m3, giá trị 60-80 triệu đồng/ha; tràm quảng canh 2.243 ha, chiến 12%, năng suất bình quân khoảng 50-70 m3, giá trị 40-60 triệu đồng/ha.

Chuyển dần phương thức canh tác hiện đại và thay đổi giống trồng, kinh tế lâm nghiệp tại vùng rừng U Minh Hạ từng bước phát triển. (Ảnh: Khai thác keo lai thâm canh tại xã Khánh Thuận, huyện U Minh).

“Việc phát triển trồng rừng thâm canh đáp ứng nguyện vọng của người kinh doanh rừng, tăng về khối lượng trên một đơn vị diện tích gấp 1,5-2 lần so với trước đây”, ông Thảo chia sẻ.

 Ðối với khu vực rừng ngập, hệ sinh thái rừng - tôm kết hợp bền vững và giảm phát thải có chứng nhận quốc tế, được Tổ chức Phát triển Hà Lan (SNV) hỗ trợ xây dựng từ năm 2013. Theo đó, đến nay, đã có 4.159 hộ với diện tích 21.937 ha, có chứng nhận rừng - tôm bền vững theo các tiêu chuẩn quốc tế (hữu cơ). Doanh nghiệp chế biến thuỷ sản chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng với mức bình quân 500 ngàn đồng/ha/năm khi mua tôm nuôi từ diện tích rừng này.

“Mô hình phát triển rừng kết hợp rừng - tôm là hướng đi thiết thực trong tình hình hiện nay. Qua đó, giúp cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng dân cư có ý thức tự giác, tích cực tham gia mô hình rừng - tôm kết hợp theo hướng bền vững, góp phần thích ứng với biến đổi khí hậu; đồng thời tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho toàn bộ hộ dân trên lâm phần, tích cực tham gia quản lý tài nguyên rừng, bảo tồn đa dạng sinh học và tăng cường trữ lượng khí các bon”, ông Lâm Ngọc Kiên, Trưởng ban Quản lý rừng phòng hộ Ðất Mũi, đánh giá, đồng thời khẳng định đây là hướng đi mới, thực hiện công cuộc giảm nghèo, tạo điều kiện xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Ngọc Hiển.

Ông Lưu Tấn Hùng, Phó giám đốc Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Ngọc Hiển, cho biết, diện tích rừng của đơn vị có sự phối hợp với Công ty Camimex thu mua tôm nguyên liệu dưới tán rừng và thực hiện chi trả dịch vụ rừng khi được chứng nhận mô hình tôm - rừng với số hộ tham gia là 1.633 cho phần diện tích trên 9.409 ha, với diện tích đất có rừng 4.535,14 ha. “Thực tế này đã tạo điều kiện tốt cho việc xây dựng mô hình rừng - tôm, kết hợp với bảo vệ rừng hiệu quả, mô hình đang được nhân rộng và phát triển trên lâm phần. Công tác bảo vệ, trồng rừng đi vào nền nếp hơn, khai thác rừng thực hiện theo phương án quản lý rừng bền vững được cấp thẩm quyền phê duyệt. Ðây được xem là những hoạt động mới hiệu quả trong các năm gần đây của đơn vị”, ông Hùng phấn khởi chia sẻ.

Sau khai thác theo chu kỳ, kinh tế rừng kết hợp nuôi tôm sinh thái thông qua việc trồng rừng mới. (Ảnh chụp tại xã Tân Ân Tây, huyện Ngọc Hiển).

Sản xuất lâm nghiệp theo chuỗi giá trị

Từ kết quả trên cho thấy, kinh tế lâm nghiệp đang trên đà phát triển và còn nhiều tiềm năng để phát huy lợi thế. Tuy nhiên, vẫn còn đó những tồn tại, như chất lượng rừng trồng chưa cao, lâm sản tiêu thụ không ổn định, chủ yếu bán cây đứng tại rừng, gỗ nhỏ chiếm tỷ lệ lớn, chưa gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ. Mô hình trồng rừng kinh doanh gỗ lớn và chuyển rừng trồng kinh doanh gỗ nhỏ sang kinh doanh gỗ lớn chưa được sự hưởng ứng của người trồng rừng, còn khó triển khai nhân rộng.

“Hiện nay, công nghiệp chế biến lâm sản trong khu vực chưa phát triển. Tại Cà Mau, chỉ có các cơ sở gia công nhỏ lẻ, chưa có các nhà máy công suất lớn đi vào hoạt động và tiêu thụ sản phẩm ổn định cho người trồng rừng, nên chưa hình thành chuỗi liên kết giá trị sản phẩm trong trồng, khai thác, chế biến lâm sản; đầu ra của sản phẩm rừng trồng chưa ổn định”, ông Trần Văn Thức, phó Giám đốc Sở NN&PTNT, nhìn nhận mấu chốt vấn đề mà lĩnh khu vực kinh tế rừng đang gặp khó. Theo đó, tỷ trọng giá trị, tăng trưởng kinh tế lâm nghiệp đạt thấp, sức cạnh tranh yếu khi tỷ trọng của lĩnh vực lâm nghiệp chỉ góp vào giá trị của ngành nông nghiệp ở mức 1,44%, trong khi tỷ lệ diện tích rừng trên diện tích tự nhiên rất lớn, chiến 17,4% diện tích tự nhiên của tỉnh...

 Mô hình sản xuất lâm - ngư kết hợp, do Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Ngọc Hiển quản lý, chủ yếu là rừng - tôm, có chứng nhận quốc tế đã góp phần nâng giá trị và thương hiệu cho các mặt hàng tôm Cà Mau xuất khẩu trên thị trường thế giới

Nhận diện thực tế, định hướng phát triển tương lai, thời gian tới, Cà Mau tập trung chuyển đổi từ trồng rừng quảng canh sang trồng rừng thâm canh với diện tích 29.000 ha, bao gồm cây keo lai khoảng 12.000 ha, cây tràm các loại 17.000 ha; trong đó rừng gỗ lớn loài cây keo lai chiếm khoảng 10% diện tích trồng keo tại khu vực rừng U Minh Hạ. Ðối với khu vực rừng ngập mặn, rừng sản xuất và rừng phòng hộ (nơi có sản xuất kết hợp) tập trung phát triển mô hình rừng - tôm bền vững theo hướng chứng nhận tôm sinh thái (hữu cơ) theo tiêu chuẩn quốc tế, với diện tích 38.000 ha, sản phẩm gỗ khai thác cung cấp nguyên liệu cho chế biến.

“Cơ giới hoá, áp dụng khoa học kỹ thuật và ứng dụng công nghệ vào trồng rừng sản xuất, kinh tế lâm nghiệp sẽ được tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm nhằm nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Ðây là cơ sở đánh giá và cấp chứng chỉ rừng trồng, tạo lợi thế cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh tế cho người trồng rừng; đồng thời tăng cường trữ lượng khí các bon rừng, giảm phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu”, ông Trần Văn Thức nêu quyết tâm của ngành./.

 

Trần Nguyên

 

Tạo điều kiện để đồng bào phát triển đời sống tốt hơn

Cùng với sự quan tâm, hỗ trợ của cấp trên, thời gian qua, các cấp uỷ đảng, chính quyền huyện Trần Văn Thời dành sự quan tâm đặc biệt chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn, cũng như tạo điều kiện cho đồng bào giữ gìn, phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp và làm đa dạng, phong phú bản sắc văn hoá các dân tộc anh em.

Cựu chiến binh Ngô Văn Xuyên gương mẫu phát triển kinh tế

Không trông chờ, ỷ lại vào các chế độ, chính sách của Nhà nước và sự trợ giúp của địa phương, với bản chất của anh Bộ đội Cụ Hồ, cựu chiến binh Ngô Văn Xuyên (72 tuổi, Ấp 2, xã Tắc Vân) luôn siêng năng, cần cù, tích cực trong lao động, thực hiện nhiều mô hình kinh tế có hiệu quả để tăng thu nhập, phát triển kinh tế gia đình.

Chuẩn bị xuống giống vụ lúa hè thu

Hiện nay, nông dân huyện Trần Văn Thời đang tập trung làm đất, chuẩn bị sẵn sàng lúa giống và các loại vật tư nông nghiệp, chờ đến lịch mùa vụ sẽ tiến hành xuống giống vụ lúa hè thu.

Gỡ khó, tạo đột phá cho kinh tế lâm nghiệp

Thời gian qua, rừng và đất lâm nghiệp không chỉ góp phần tạo việc làm, cải thiện sinh kế, giảm nghèo, mà còn mang lại giá trị trong nghiên cứu khoa học, bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái để phát triển bền vững. Tuy nhiên hiện nay, kinh tế lâm nghiệp vẫn chưa được phát huy xứng tầm với tiềm năng, do vẫn còn những điểm nghẽn.

Mùa chụp đìa

Vào mùa hạn, khi những cánh đồng nhấp nhô rơm rạ, các con kênh khô nước cũng là lúc vào mùa chụp đìa. Ở xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, mùa này là lúc bà con nô nức cùng nhau vần công để chụp đìa, chia cá. Dân ở xứ cá đồng cũng vui lây vì có thêm thu nhập lúc nông nhàn.

Hợp tác xã “Cây ăn trái sạch Khánh Hưng” hướng đến môi trường kinh doanh điện tử

Ðược thành lập và đi vào hoạt động hơn 5 năm qua, Hợp tác xã (HTX) "Cây ăn trái sạch Khánh Hưng", xã Khánh Hưng, huyện Trần Văn Thời không ngừng củng cố và nâng cao chất lượng. Ðặc biệt, HTX đang hướng đến môi trường kinh doanh điện tử, nhằm quảng bá sản phẩm và bắt nhịp với quá trình chuyển đổi số.

Sản xuất con giống - Phát triển nghề nuôi thuỷ sản

Giống thuỷ sản là đối tượng phục vụ nghề nuôi thuỷ sản, giúp tăng thu nhập cho nông dân. Tuy nhiên, thời gian qua, do môi trường nước ô nhiễm cùng với việc khai thác, đánh bắt theo cách huỷ diệt đã làm cho giống loài thuỷ sản ở môi trường tự nhiên gần như cạn kiệt.

Triển vọng nuôi cá tra thương phẩm

Hiện nay, nhiều hộ ở vùng ven TP Cà Mau thực hiện mô hình nuôi cá tra khá hiệu quả, mang lại nguồn thu nhập ổn định. Khác với quy mô công nghiệp như ở các tỉnh trong khu vực, mô hình nuôi cá tra ở đây khá đơn giản, ít tốn chi phí, được xem là hướng đi triển vọng cho nông dân.

Ðổi mới để nuôi tôm hiệu quả

Ðầm Dơi là huyện có diện tích nuôi trồng thuỷ sản lớn nhất tỉnh với hơn 62.000 ha, tuy nhiên, do nhiều yếu tố tác động nên đã ảnh hưởng đến sản xuất của người dân. Vì vậy, thời gian qua, nông dân trong huyện đã đổi mới, sáng tạo và thành công với nhiều mô hình sản xuất hiệu quả, trong đó có không ít mô hình là sáng kiến mới, cách làm hay, đã và đang được huyện nhân rộng.

Tạo động lực bứt phá cho ngành tôm

Ngành tôm - ngành kinh tế mũi nhọn, tiếp tục giữ vai trò chủ lực đóng góp cho phát triển kinh tế tỉnh, đóng góp 49% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2024, ước đạt 7.476 tỷ đồng. Không chỉ mang lại nguồn thu lớn, góp phần đưa Cà Mau vươn tầm trên bản đồ thuỷ sản Việt Nam và thế giới, ngành tôm còn tạo sinh kế bền vững cho hàng trăm ngàn hộ dân, thúc đẩy mô hình hợp tác, liên kết sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ.