(CMO) Kinh tế lâm nghiệp tại Cà Mau những năm gần đây có nhiều khởi sắc, thông qua các hình thức chuyển đổi sản xuất, từ giống cây trồng đến hình thức canh tác, chế biến lâm sản, nuôi trồng dưới tán rừng, tận dụng hệ sinh thái rừng để phát triển du lịch... Từ đó, mang lại nguồn lợi đáng kể, từng bước thay đổi đời sống người dân vùng rừng, cũng như các chủ rừng.
Năm 2009, khu vực U Minh Hạ bắt đầu thực hiện chuyển đổi một phần diện tích rừng tràm sang trồng keo lai bằng phương pháp lên liếp trồng tập trung, diện tích trồng keo lai đã tăng nhanh vào các năm tiếp theo. Ðến năm 2022, có trên 23.500 ha rừng U Minh Hạ được chuyển đổi từ trồng tràm truyền thống sang lên liếp trồng rừng theo hướng thâm canh tăng năng suất, chất lượng rừng (keo 11.250 ha, tràm 12.250 ha). Keo lai sinh trưởng nhanh, rừng trồng 5 năm tuổi trữ lượng bình quân từ 200-260 m3/ha, có những nơi lên trên 300 m3/ha (cây có đường kính trên 20 cm chiếm trên 35% số cây).
Hướng đi đúng cho kinh tế rừng
Ông Trần Ngọc Thảo, Giám đốc Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp U Minh Hạ, cho biết, hiện nay, đơn vị quản lý 23.966 ha. Diện tích quy hoạch trồng rừng trên 19.400 ha. Ngoài loài cây tràm bản địa, khu vực rừng tràm đã nhập ngoại cây keo lai và tràm Úc. Trong đó, diện tích keo lai là 5.924 ha, chiếm 32%, năng suất bình quân khoảng 160-180 m3, giá trị 140-160 triệu đồng/ha; tràm thâm canh diện tích 7.622 ha, chiếm 40%, năng suất bình quân khoảng 120-150 m3, giá trị 60-80 triệu đồng/ha; tràm quảng canh 2.243 ha, chiến 12%, năng suất bình quân khoảng 50-70 m3, giá trị 40-60 triệu đồng/ha.
Chuyển dần phương thức canh tác hiện đại và thay đổi giống trồng, kinh tế lâm nghiệp tại vùng rừng U Minh Hạ từng bước phát triển. (Ảnh: Khai thác keo lai thâm canh tại xã Khánh Thuận, huyện U Minh).
“Việc phát triển trồng rừng thâm canh đáp ứng nguyện vọng của người kinh doanh rừng, tăng về khối lượng trên một đơn vị diện tích gấp 1,5-2 lần so với trước đây”, ông Thảo chia sẻ.
Ðối với khu vực rừng ngập, hệ sinh thái rừng - tôm kết hợp bền vững và giảm phát thải có chứng nhận quốc tế, được Tổ chức Phát triển Hà Lan (SNV) hỗ trợ xây dựng từ năm 2013. Theo đó, đến nay, đã có 4.159 hộ với diện tích 21.937 ha, có chứng nhận rừng - tôm bền vững theo các tiêu chuẩn quốc tế (hữu cơ). Doanh nghiệp chế biến thuỷ sản chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng với mức bình quân 500 ngàn đồng/ha/năm khi mua tôm nuôi từ diện tích rừng này.
“Mô hình phát triển rừng kết hợp rừng - tôm là hướng đi thiết thực trong tình hình hiện nay. Qua đó, giúp cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng dân cư có ý thức tự giác, tích cực tham gia mô hình rừng - tôm kết hợp theo hướng bền vững, góp phần thích ứng với biến đổi khí hậu; đồng thời tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho toàn bộ hộ dân trên lâm phần, tích cực tham gia quản lý tài nguyên rừng, bảo tồn đa dạng sinh học và tăng cường trữ lượng khí các bon”, ông Lâm Ngọc Kiên, Trưởng ban Quản lý rừng phòng hộ Ðất Mũi, đánh giá, đồng thời khẳng định đây là hướng đi mới, thực hiện công cuộc giảm nghèo, tạo điều kiện xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Ngọc Hiển.
Ông Lưu Tấn Hùng, Phó giám đốc Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Ngọc Hiển, cho biết, diện tích rừng của đơn vị có sự phối hợp với Công ty Camimex thu mua tôm nguyên liệu dưới tán rừng và thực hiện chi trả dịch vụ rừng khi được chứng nhận mô hình tôm - rừng với số hộ tham gia là 1.633 cho phần diện tích trên 9.409 ha, với diện tích đất có rừng 4.535,14 ha. “Thực tế này đã tạo điều kiện tốt cho việc xây dựng mô hình rừng - tôm, kết hợp với bảo vệ rừng hiệu quả, mô hình đang được nhân rộng và phát triển trên lâm phần. Công tác bảo vệ, trồng rừng đi vào nền nếp hơn, khai thác rừng thực hiện theo phương án quản lý rừng bền vững được cấp thẩm quyền phê duyệt. Ðây được xem là những hoạt động mới hiệu quả trong các năm gần đây của đơn vị”, ông Hùng phấn khởi chia sẻ.
Sau khai thác theo chu kỳ, kinh tế rừng kết hợp nuôi tôm sinh thái thông qua việc trồng rừng mới. (Ảnh chụp tại xã Tân Ân Tây, huyện Ngọc Hiển).
Sản xuất lâm nghiệp theo chuỗi giá trị
Từ kết quả trên cho thấy, kinh tế lâm nghiệp đang trên đà phát triển và còn nhiều tiềm năng để phát huy lợi thế. Tuy nhiên, vẫn còn đó những tồn tại, như chất lượng rừng trồng chưa cao, lâm sản tiêu thụ không ổn định, chủ yếu bán cây đứng tại rừng, gỗ nhỏ chiếm tỷ lệ lớn, chưa gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ. Mô hình trồng rừng kinh doanh gỗ lớn và chuyển rừng trồng kinh doanh gỗ nhỏ sang kinh doanh gỗ lớn chưa được sự hưởng ứng của người trồng rừng, còn khó triển khai nhân rộng.
“Hiện nay, công nghiệp chế biến lâm sản trong khu vực chưa phát triển. Tại Cà Mau, chỉ có các cơ sở gia công nhỏ lẻ, chưa có các nhà máy công suất lớn đi vào hoạt động và tiêu thụ sản phẩm ổn định cho người trồng rừng, nên chưa hình thành chuỗi liên kết giá trị sản phẩm trong trồng, khai thác, chế biến lâm sản; đầu ra của sản phẩm rừng trồng chưa ổn định”, ông Trần Văn Thức, phó Giám đốc Sở NN&PTNT, nhìn nhận mấu chốt vấn đề mà lĩnh khu vực kinh tế rừng đang gặp khó. Theo đó, tỷ trọng giá trị, tăng trưởng kinh tế lâm nghiệp đạt thấp, sức cạnh tranh yếu khi tỷ trọng của lĩnh vực lâm nghiệp chỉ góp vào giá trị của ngành nông nghiệp ở mức 1,44%, trong khi tỷ lệ diện tích rừng trên diện tích tự nhiên rất lớn, chiến 17,4% diện tích tự nhiên của tỉnh...
Mô hình sản xuất lâm - ngư kết hợp, do Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Ngọc Hiển quản lý, chủ yếu là rừng - tôm, có chứng nhận quốc tế đã góp phần nâng giá trị và thương hiệu cho các mặt hàng tôm Cà Mau xuất khẩu trên thị trường thế giới
Nhận diện thực tế, định hướng phát triển tương lai, thời gian tới, Cà Mau tập trung chuyển đổi từ trồng rừng quảng canh sang trồng rừng thâm canh với diện tích 29.000 ha, bao gồm cây keo lai khoảng 12.000 ha, cây tràm các loại 17.000 ha; trong đó rừng gỗ lớn loài cây keo lai chiếm khoảng 10% diện tích trồng keo tại khu vực rừng U Minh Hạ. Ðối với khu vực rừng ngập mặn, rừng sản xuất và rừng phòng hộ (nơi có sản xuất kết hợp) tập trung phát triển mô hình rừng - tôm bền vững theo hướng chứng nhận tôm sinh thái (hữu cơ) theo tiêu chuẩn quốc tế, với diện tích 38.000 ha, sản phẩm gỗ khai thác cung cấp nguyên liệu cho chế biến.
“Cơ giới hoá, áp dụng khoa học kỹ thuật và ứng dụng công nghệ vào trồng rừng sản xuất, kinh tế lâm nghiệp sẽ được tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm nhằm nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Ðây là cơ sở đánh giá và cấp chứng chỉ rừng trồng, tạo lợi thế cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh tế cho người trồng rừng; đồng thời tăng cường trữ lượng khí các bon rừng, giảm phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu”, ông Trần Văn Thức nêu quyết tâm của ngành./.
Trần Nguyên