Việc các tập đoàn bán lẻ Thái Lan thâu tóm hai chuỗi siêu thị lớn của Việt Nam đã tạo nên sự lo lắng cho nhiều doanh nghiệp. Bởi, với chất lượng hàng hóa và giá cả hợp lý của các tập đoàn bán lẻ Thái Lan, hàng Việt sẽ gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh.

Nếu như trước đây, Việt Nam có 3 đại gia bán lẻ hàng đầu là Saigon Co.op, Big C và Metro, thì hiện nay chỉ còn hệ thống của Saigon Co.op và thêm hệ thống Vinmart của Tập đoàn Vingroup mới phát triển gần đây. Chắc chắn thị trường bán lẻ sẽ bị chia phần và cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam lại cần được khơi dậy từ mỗi người tiêu dùng.
Tuy nhiên, người tiêu dùng có còn ưu tiên cho hàng Việt Nam nữa hay không? Vấn đề quyết định vẫn là chất lượng và giá cạnh tranh. Do vậy, cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam không nên dừng ở những khẩu hiệu vận động lòng yêu nước, hoặc các phong trào, chương trình Đưa hàng Việt về nông thôn, mà phải được thể hiện bằng hành động. Nếu không, hàng Việt sẽ khó chen chân vào các siêu thị, thậm chí ngay cả các chợ truyền thống cũng bị hàng Thái lấn sân. Điều này chúng ta thấy rất rõ đối với mặt hàng mỹ phẩm, da giầy và bánh kẹo được bán rất chạy ở các chợ hiện nay.
Theo ông Nguyễn Hồng Ân, Giám đốc Siêu thị Co.opmart Bạc Liêu: “Hệ thống siêu thị của Saigon Co.op chiếm 90% mặt hàng kinh doanh là hàng Việt Nam. Tuy nhiên, tới đây sẽ phải cạnh tranh khốc liệt với hàng Thái Lan. Vì vậy, trong nhiều giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh, tiếp tục giúp hàng Việt phát triển, các doanh nghiệp trong nước phải liên kết chặt chẽ với nhau. Trong đó, nâng cao chất lượng và giảm tối đa giá thành vẫn là vấn đề quyết định”.
Về phía Nhà nước cũng phải có những chính sách hỗ trợ nhằm giúp doanh nghiệp giảm chi phí, có điều kiện phát triển, đầu tư dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại. Đó là đơn giản hóa các thủ tục hành chính, hỗ trợ lãi suất ưu đãi và khai thông nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng. Bởi, với mức lãi suất cho vay hơn 10%/năm như hiện nay vẫn còn quá cao đối với doanh nghiệp.
Ngoài các giải pháp hỗ trợ phát triển sản xuất, cũng cần quan tâm đến việc hoạch định những giải pháp chiến lược cho hàng Việt. Đó là sản xuất hàng hóa theo thị hiếu, nhu cầu của thị trường tiêu dùng và khai thác các thị trường tiềm năng vốn bị bỏ ngỏ (như thị trường nông thôn). Bởi, có rất nhiều người Việt thích sử dụng hàng Thái từ kiểu dáng, chất lượng, giá cả, thậm chí cả khẩu vị... Phải chăng, những doanh nghiệp Thái Lan đã nghiên cứu rất kỹ và hoạch định cả một chiến lược cho phát triển thị trường ngoài nước mà các doanh nghiệp Việt lâu nay ít quan tâm?...
Tham gia các hiệp định thương mại, hàng hóa Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với nhiều sản phẩm nhập ngoại trong tương lai, chứ không riêng hàng Thái Lan. Do vậy, sự chủ động, nhạy bén của doanh nghiệp cùng với sự tiếp sức của Nhà nước sẽ là những điều kiện thuận lợi cho hàng Việt không bị thua trên chính sân nhà, và hướng đến phát triển bền vững.
KIM TRUNG