Một trong những nội dung quan trọng được tổ chức hội thảo tại Diễn đàn hợp tác kinh tế ĐBSCL (MDEC Hậu Giang 2016) là “hoạt động tín dụng ngân hàng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL”. Đặc biệt, các chính sách tín dụng đầu tư cho phát triển nông nghiệp - nông thôn được xem là động lực quan trọng góp phần vực dậy tiềm năng và thế mạnh của vùng đất này.
* Nông dân huyện Hòa Bình thu hoạch lúa.
* Ngân hàng Vietcombank - Chi nhánh tỉnh Bạc Liêu, một trong những ngân hàng thương mại tích cực đầu tư cho phát triển nông nghiệp - nông thôn. Ảnh: L.D
ƯU TIÊN VỐN CHO NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN
ĐBSCL được coi là vựa lúa lớn nhất của cả nước và cũng là vựa trái cây, nơi cung cấp thủy hải sản chủ yếu cho xuất khẩu. Với thế mạnh đặc thù này, nên phần lớn lao động và thu nhập của người nông dân đều phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản. Tuy nhiên, với điều kiện hạ tầng giao thông yếu kém nên chưa thu hút được nhiều nguồn lực cho phát triển, nhất là lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn; tình trạng nông dân, doanh nghiệp thiếu và không đủ vốn phục vụ cho phát triển sản xuất, kinh doanh ở khu vực nông thôn còn khá nhiều.
Xuất phát từ thực trạng trên, trong những năm qua Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết, cơ chế, chính sách về tín dụng cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đồng thời ban hành các cơ chế tín dụng đặc thù cho khu vực ĐBSCL và tổ chức Diễn đàn hợp tác kinh tế ĐBSCL hàng năm, nhằm tăng cường đầu tư, liên kết vùng và mở ra cơ hội cho ĐBSCL phát triển nhanh, bền vững. Cụ thể như Nghị quyết số 26/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Quyết định 48/2010/của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích, hỗ trợ khai thác, nuôi trồng hải sản và dịch vụ khai thác hải sản trên các vùng biển xa; Quyết định 68/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng về chính sách giảm tổn thất trong nông nghiệp; Nghị định 61/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Nghị định 41/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị định 67/2014/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về chính sách phát triển thủy sản...
Để cụ thể hóa các chủ trương, chính sách hỗ trợ này, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo và xây dựng nhiều chương trình, nghị quyết cho phát triển nông nghiệp - nông thôn gắn với chỉ đạo, khuyến khích các ngân hàng, các thành phần kinh tế đầu tư cho cho phát triển nông nghiệp - nông thôn. Đơn cử như Chương trình 39/Ctr-TƯ của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về thực hiện Nghị quyết 26; Nghị quyết 04 của Tỉnh ủy Bạc Liêu về phát triển kinh tế biển, vùng phía Nam Quốc lộ 1A đến năm 2015 và những năm tiếp theo; Nghị quyết 05 của Tỉnh ủy về phát triển vùng phía Bắc Quốc lộ 1A đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020...
Với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Bạc Liêu, nên đầu tư tín dụng cho nông nghiệp - nông thôn không ngừng tăng lên. Nếu năm 2011, tổng dư nợ cho vay nông nghiệp - nông thôn đạt 9.953 tỷ đồng, thì đến năm 2012 là 10.861 tỷ đồng; năm 2013 là 12.366 tỷ đồng, năm 2014 là 14.351 tỷ đồng và năm 2015 là 16.273 tỷ đồng.
Từ những con số trên cho thấy, dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp - nông thôn và xây dựng nông thôn mới năm sau luôn cao hơn năm trước, với tốc độ tăng trưởng cho vay phát triển nông nghiệp - nông thôn 12,86%/năm. Cũng như dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp - nông thôn luôn chiếm tỷ trọng trên 50%/tổng dư nợ cho vay. Việc tăng cường đầu tư này đã tác động tích cực đến thay đổi cơ cấu sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho nông, ngư dân có vốn đầu tư mở rộng, phát triển, ứng dụng những mô hình sản xuất mới, giải quyết thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập, giảm nghèo...
CẦN NHIỀU GIẢI PHÁP
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Bạc Liêu, cùng với những kết quả đạt được, đầu tư tín dụng cho phát triển nông nghiệp - nông thôn cũng còn tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế. Đó là hệ thống thủy lợi, giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng ở nhiều nơi chưa được hoàn chỉnh. Công tác quy hoạch, kế hoạch về nuôi trồng, chế biến, thu mua, xuất khẩu lúa gạo và thủy sản còn bất cập. Bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp luôn gánh chịu nhiều rủi ro như: thiên tai, dịch bệnh, giá cả vật tư đầu vào tăng cao, thị trường đầu ra không ổn định, lợi nhuận mang lại thấp... Thêm vào đó, nhiều cá nhân, hộ gia đình vay vốn đầu tư cho phát triển sản xuất nhưng lại sử dụng vốn vay sai mục đích, đầu tư vốn vào lĩnh vực ngoài nông nghiệp, dẫn đến gặp khó khăn về dòng tiền, về khả năng thanh toán khi nợ đến hạn; cán bộ ngân hàng kiểm tra giám sát món vay thiếu chặt chẽ, chưa xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm hợp đồng làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và đẩy nợ quá hạn, nợ xấu tăng cao... Đó là chưa nói đến nhiều trường hợp xem các khoản tiền vay của ngân hàng là một khoản đầu tư theo chính sách của Nhà nước nhằm giúp cải thiện cuộc sống của người dân vùng nông thôn, do vậy có tâm lý ỷ lại, xem vốn đầu tư của ngân hàng là vốn cho không nên không cần phải có trách nhiệm hoàn trả, hoặc không trả cũng không sao!? Rồi chính quyền địa phương một số nơi chỉ quan tâm đến việc cho vay, nhưng thiếu kiên quyết trong việc phối hợp xử lý thu hồi nợ quá hạn, nợ xấu khi nợ vay đến hạn, đặc biệt là những khách hàng có khả năng trả nợ nhưng chây ỳ, cố tình không trả nợ...
Chính những khó khăn và bất cập trên, nhiều ngân hàng ngại đầu tư, còn tham gia chương trình đầu tư tín dụng nông nghiệp - nông thôn theo kiểu “tham gia cho có” và luôn tồn tại nghịch lý “nông dân luôn nói thiếu vốn sản xuất, nhưng ngân hàng lại khẳng định tín dụng đầu tư cho tam nông không thiếu”?!
Được biết, tại hội thảo hoạt động tín dụng ngân hàng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL (MDEC Hậu Giang 2016) lần này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các chuyên gia kinh tế sẽ có nhiều phân tích, đánh giá về hiệu quả của các chương trình tín dụng. Đồng thời đưa ra nhiều giải pháp, kiến nghị với Đảng, Nhà nước và Chính phủ cần ban hành các cơ chế tín dụng đặc thù cho khu vực ĐBSCL.
KIM TRUNG
Tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế ĐBSCL lần này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Bạc Liêu kiến nghị:
- Cần có sự kết hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các hội, đoàn thể với ngân hàng, giúp nông dân trong việc tiếp cận vốn, các chính sách về vốn tín dụng, thủ tục vay vốn, công khai và đơn giản hóa thủ tục hành chính trong việc xác nhận và giải quyết các giấy tờ liên quan đến việc vay vốn. Thực hiện tốt quy trình trước, trong và sau khi cho vay, kiểm tra giám sát chặt chẽ vốn vay nhằm hạn chế việc sử dụng vốn không đúng mục đích.
- Tăng cường xúc tiến thương mại để hạn chế tối đa các sản phẩm sản xuất ra không có nơi tiêu thụ, được mùa mất giá dẫn đến nông dân thua lỗ.
- Các tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh TCTD, tổ chức có hoạt động ngân hàng tiếp tục và tập trung vốn cho vay vào lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn. Đẩy mạnh đầu tư vốn cho vay xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở, giao thông, hệ thống thủy lợi, tập trung vốn để cho vay đối với sản xuất, thu mua, chế biến các mặt hàng nông - lâm - thủy hải sản, các mặt hàng thế mạnh. Trung ương, địa phương và ngành Ngân hàng tranh thủ các nguồn vốn tài trợ, ưu đãi của quốc tế để tập trung cho vay phát triển nông nghiệp - nông thôn.
- Cần có cơ chế giám sát chặt chẽ, chế tài nghiêm khắc nhằm tạo tính răn đe, hạn chế đến mức thấp nhất sự chèn ép về giá cả, yếu tố đầu ra, thành lập các tổ tư vấn ở xã, phường nhằm tạo kênh phân phối cho nhà sản xuất, tạo lòng tin cho người nông dân tham gia và gia tăng sản xuất, đặc biệt đối với những mặt hàng chủ lực, phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu...