(CMO) Trong sản xuất nông nghiệp, giống là yếu tố quan trọng, không chỉ ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và lợi nhuận, mà còn là vấn đề cấp bách để tiến tới đạt mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu (BÐKH).
Thời gian qua, tỉnh đã nỗ lực thực hiện nhiệm vụ phát triển sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, thuỷ sản phục vụ sản xuất và đạt một số kết quả đáng khích lệ. Ðiển hình như, đã làm chủ được quy trình công nghệ sản xuất cua giống, tôm sú giống, một số loài thuỷ sản nước ngọt và chủ động cung cấp gần 49% nhu cầu tôm sú giống cho toàn tỉnh.
Tuy nhiên, công tác giống hiện nay vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp của tỉnh, nhất là trước tác động ngày một nghiêm trọng của BÐKH. Giống tôm sú, loại vật nuôi thế mạnh của tỉnh, vẫn còn phải nhập từ các tỉnh khoảng 51%; sản xuất giống cây lâm nghiệp chỉ mới đáp ứng 30% nhu cầu trồng rừng trong tỉnh. Ðối với giống lúa càng thiếu hụt nghiêm trọng hơn và chủ yếu là nhập tỉnh, Trung tâm Giống nông nghiệp chỉ đáp ứng 4% nhu cầu sử dụng giống lúa mới, cấp xác nhận trong dân.
Không chỉ thiếu về số lượng mà việc sản xuất, cung ứng giống trong tỉnh cũng còn manh mún, công nghệ chưa hiện đại. Phần lớn các cơ sở sản xuất, kinh doanh giống chưa đáp ứng quy định công tác xây dựng, đăng ký tiêu chuẩn chất lượng giống còn hạn chế…
Một thí dụ dễ thấy nhất là trên lĩnh vực cung cấp giống tôm phục vụ sản xuất. Dù đã trải qua một thời gian dài hình thành và được xác định là kinh tế mũi nhọn của tỉnh với hơn 280.000 ha, nhưng đến nay toàn tỉnh chỉ có 524 cơ sở sản xuất tôm giống, năng lực sản xuất 19-21 tỷ con giống/năm; trong khi nhu cầu khoảng 42 tỷ con. Ngoài ra, trong số khoảng 300 cơ sở kinh doanh giống thuỷ sản có hơn 80% cơ sở nhỏ lẻ, nằm phân tán tại các địa bàn. Thực tế này gây khó khăn trong quản lý. Các kỹ thuật viên vận hành sản xuất có bằng cấp chuyên môn không nhiều, khoảng 20% và số còn lại chỉ được tập huấn ngắn hạn. Hạn chế về trình độ kỹ thuật đã ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng tôm giống sản xuất trong tỉnh.
Tỉnh đặt ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2025 diện tích nuôi tôm càng xanh đạt 20.000 ha, sản lượng đạt 8 ngàn tấn, bình quân nhu cầu con giống mỗi năm khoảng 438 triệu con, nhưng hiện chưa có cơ sở sản xuất giống.
Riêng đối với giống tôm thẻ chân trắng, một loại thuỷ sản nuôi đang được phát triển mạnh hiện nay ở tỉnh, cũng không ngoại lệ. Hiện toàn tỉnh chỉ có 4 cơ sở sản xuất giống tôm thẻ chân trắng kết hợp với giống tôm sú, công suất thiết kế trên 16,5 tỷ post/năm. Trong đó, Tập đoàn Việt Úc đầu tư khu sản xuất tôm giống với quy mô hơn 120 ha, công suất thiết kế hơn 14 tỷ con giống/năm, nhưng đến nay mới đi vào sản xuất giai đoạn I với năng lực cung cấp khoảng 7 tỷ con giống. Hay như Công ty Thảo Nguyên và Việt Mỹ chỉ sản xuất khoảng 50-60% so với công suất thiết kế là 2,5 tỷ con giống mỗi năm.
Tượng tự, giống cây keo lai cũng chủ yếu nhập tỉnh, nhất là giống keo lai nuôi cấy mô. Hiện nay, diện tích trồng keo lai trên địa bàn tỉnh khoảng 10.000 ha; diện tích trồng rừng mới và trồng sau khai thác hàng năm khoảng 1.300 ha, nhu cầu giống keo lai phục vụ trồng rừng khoảng 3,9 triệu cây/năm. Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh hiện có 2 cơ sở sản xuất giống keo lai nuôi cấy mô là Trung tâm Giống nông nghiệp và Trung tâm Thông tin và Ứng dụng khoa học công nghệ, với khả năng cung ứng khoảng 1,1% nhu cầu toàn tỉnh (chủ yếu cung cấp theo hợp đồng đặt hàng). Riêng giống keo lai giâm hom, hiện chỉ có 3 cơ sở sản xuất giống, khả năng cung ứng khoảng 3 triệu cây mỗi năm, đáp ứng được khoảng 77% nhu cầu toàn tỉnh.
Diện tích trồng rừng keo lai mới và trồng sau khai thác hàng năm khoảng 1.300 ha, nhu cầu giống keo lai phục vụ trồng rừng khoảng 3,9 triệu cây/năm nhưng năng lực cung cấp giống cấy mô còn thấp.
Ðối với cây tràm giống thì càng khó khăn hơn. Diện tích tràm trồng mới và trồng sau khai thác của tỉnh hàng năm khoảng 1.000 ha, nhu cầu tràm giống khoảng 20 triệu cây. Tuy nhiên, tỉnh vẫn chưa có cơ sở sản xuất tràm giống, 100% cây giống được nhập tỉnh (từ Hậu Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang, Long An...).
Ngoài ra, nhiều loại cây trồng, vật nuôi chủ lực khác của tỉnh như tôm càng xanh, cua biển, sò huyết hay một số loài thuỷ sản nước lợ - mặn, đặc trưng là cá bớp, cá mú, cá nâu, cá kèo, cá dứa, các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ…, nguồn giống chủ yếu chỉ khai thác ngoài thiên nhiên hoặc nhập từ các tỉnh để phục vụ nhu cầu nuôi.
Diện tích chuối toàn tỉnh hiện khoảng 5.500 ha, trong đó chuối xiêm chiếm hơn 90%, còn lại là các giống chuôi già, chuôi cao, chuối Nam Mỹ... Người dân trồng chủ yếu bằng phương pháp tách chồi từ cây mẹ nên nguồn chuối giống có chất lượng không cao, không đồng đều về năng suất, chất lượng.
Nhằm sớm khắc phục hạn chế, góp phần tăng nhanh tỷ lệ sử dụng giống chất lượng cao, tạo ra đột phá mới về năng suất, chất lượng và tăng sức cạnh tranh của nông sản, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng GRDP của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn 5% mỗi năm, đặc biệt là thích ứng với BÐKH, UBND tỉnh vừa ban hành Quyết định phê duyệt Ðề án “Phát triển sản xuất giống phục vụ cơ cấu lại ngành nông nghiệp tỉnh Cà Mau giai đoạn 2023-2030”.
Theo đó, mục tiêu của đề án là đến năm 2030, phát triển sản xuất những giống cây trồng, vật nuôi chủ lực trên địa bàn tỉnh và giống khác có khả năng phát triển trên địa bàn tỉnh cho năng suất, chất lượng cao, thích ứng với BÐKH. Tổng kinh phí thực hiện đề án trên 296,9 tỷ đồng, chia thành 2 giai đoạn; giai đoạn 2023-2025 là 154,3 tỷ đồng, giai đoạn 2026-2030 là 142,6 tỷ đồng.
Liên quan đến lĩnh vực sản xuất, ông Lê Văn Sử, Phó chủ tịch UBND tỉnh, chỉ đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kết hợp với các huyện, thành phố xây dựng kế hoạch sản xuất thích ứng với từng tình huống thiên tai từ nay đến cuối năm 2023. Trong đó, chú ý vụ sản xuất lúa trên đất tôm. Bên cạnh đó là xây dựng lại lịch thời vụ; đặc biệt, phải tiến hành điều chỉnh lại giống lúa để tránh thiệt hại trước dự báo hạn hán vào cuối năm, do ảnh hưởng của hiện tượng El Nino.
Nguyễn Phú