ĐT: 0939.923988
Thứ tư, 25-6-25 06:26:31
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Tên người ghép đôi thành tên đất

Báo Cà Mau Lần theo dấu chân người đi mở đất Cà Mau mới thấy, nhiều tên người đã hoá thành tên đất. Những cái tên như: Ông Ðịnh, Ông Do, Bà Bường, Bà Thanh... trên những ngã ba sông, những con rạch ở rừng đước Năm Căn, theo giải thích trong dân gian, đó là tên những người đầu tiên đến vùng đất này, được người sau gọi riết thành địa danh.

Lấy tên người đặt thành tên ấp, xóm có rất nhiều ở địa bàn tỉnh Cà Mau, nhưng lấy tên 2 người ghép lại thành tên xã thì dường như chỉ có ở huyện Thới Bình.

Khi Nam Bộ cùng cả nước bước vào giai đoạn thực hiện cuộc trường kỳ kháng chiến, rừng U Minh Hạ (bao gồm huyện Trần Văn Thời và Thới Bình, bấy giờ chưa có huyện U Minh) trở thành căn cứ Xứ uỷ Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam. Ðể đảm bảo phục vụ cho cuộc kháng chiến, nhiều xã ở rừng U Minh Hạ được thành lập; trong đó có 2 xã, Biển Bạch và Trí Phải, của huyện Thới Bình được ghép từ tên người.

Các xã Biển Bạch, Trí Phải là khu căn cứ kháng chiến năm xưa nay đạt nhiều thành tựu trong xây dựng quê hương. (Trong ảnh: Những hàng rào bông trang dài hàng chục mét được người dân trồng rất nhiều ở ấp Phước Hoà, xã Biển Bạch Ðông, tạo bộ mặt tươi mới cho làng quê). 

Ðể hiểu thêm về các địa danh này, chúng tôi lần dò hỏi thăm những cán bộ lão thành cách mạng, những lão nông cố cựu trên địa bàn. Tuy nhiên, vì địa danh hình thành khá lâu nên không mấy người rành rẽ việc này còn sống.

Dẫu vậy, qua thông tin góp nhặt thì được biết, địa danh Biển Bạch, Trí Phải được lấy tên của 4 liệt sĩ hy sinh trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp.

Tên xã Biển Bạch được ghép từ tên của 2 liệt sĩ, là Lê Văn Biển và Lưu Thái Bạch. Xã Biển Bạch được thành lập năm 1949, trên cơ sở tách ra từ xã Thới Bình, được hội nghị cán bộ xã thống nhất lấy tên 2 liệt sĩ trên để đặt tên cho xã.

Còn Trí Phải là xã được ghép tên của 2 liệt sĩ, là Lê Phước Trí và Phan Văn Phải. Xã được thành lập năm 1950, trên cơ sở một phần của xã Thới Bình.

Lê Phước Trí quê ở Bạc Liêu, là cán bộ, công tác ở xã Thới Bình và hy sinh tại đây. Còn Phan Văn Phải là cán bộ tuyên truyền của xã Thới Bình, bị điềm chỉ và bị thực dân Pháp phục kích bắn chết sau khi đi họp từ huyện về. Liệt sĩ Phan Văn Phải hy sinh ngày 22/11/1946. Ông có 1 người con tên Phan Văn Sáng, lúc ông hy sinh, vợ ông mới mang bầu. Về sau, ông Phan Văn Sáng tham gia bộ đội, bị giặc bắt, tù đày ngoài Côn Ðảo. Sau ngày thống nhất đất nước, ông công tác ở Sở Giao thông vận tải TP Hồ Chí Minh.

Ông Phan Văn Hoài, 79 tuổi (hiện ngụ Ấp 10, xã Trí Phải) là cháu ruột gọi ông Phan Văn Phải bằng bác, cho biết, gia đình ông thờ phụng Liệt sĩ Phan Văn Phải hơn 50 năm. Sau này, khi nghỉ hưu, ông Phan Văn Sáng đã thỉnh cha ruột mình về nhà ông ở TP Hồ Chí Minh để thờ phụng.

Ông Phan Văn Hoài ngụ Ấp 10, xã Trí Phải, cháu ruột gọi Liệt sĩ Phan Văn Phải bằng bác, là người hiếm hoi có được thông tin tương đối đầy đủ về Liệt sĩ Phan Văn Phải.

Vợ Liệt sĩ Phan Văn Phải (bà Võ Thị Dương) về sau đi bước nữa và có 4 người con, trong đó có 2 người hy sinh. Bà được phong tặng Mẹ Việt Nam Anh hùng, hiện vẫn còn sống ở ấp Lê Hoàng Thá, xã Tân Bằng, huyện Thới Bình, bà nay đã 101 tuổi.

Việc lấy tên người đặt cho tên xã mang ý nghĩa ghi công những liệt sĩ hy sinh vì quê hương đất nước. Ðồng thời, lấy dũng khí của những người chiến sĩ cách mạng để cổ vũ Nhân dân tiếp tục đóng góp cho kháng chiến thắng lợi, cũng như giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ sau.

Chính ý nghĩa đó, sau khi được thành lập, các xã Biển Bạch, Trí Phải kiện toàn tổ chức Ðảng, xây dựng bộ máy chính quyền, phát triển các đoàn thể kháng chiến, phát động Nhân dân tinh thần yêu nước, góp phần xây dựng vùng căn cứ An toàn khu cho Xứ uỷ Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam.

Bia kỷ niệm Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn (Phân hiệu Nam Bộ) tại xã Trí Phải.

Trí Phải, Biển Bạch, những tên người đã hoá thành tên đất. Vùng đất, con người nơi đây vinh dự và tự hào đã nuôi dưỡng, bảo vệ nhiều cơ quan kháng chiến, như: cơ quan Xứ uỷ Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Sở Y tế Nam Bộ, Ðài Tiếng nói Nam Bộ, Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn (Phân hiệu Nam Bộ)... Riêng Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn (Phân hiệu Nam Bộ) đã mở nhiều lớp huấn luyện, đào tạo cho hơn 1.500 cán bộ, sĩ quan phục vụ cho các tỉnh Nam Bộ, từ đây có 5 người được phong tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, trong đó có Anh hùng phi công Lâm Văn Lích quê ở Cà Mau.

Từ mảnh đất Trí Phải, Biển Bạch (Thới Bình) Anh hùng Lao động, Thầy thuốc Nhân dân, Bác sĩ Nguyễn Thiện Thành cùng với cán bộ, nhân viên Sở Y tế Nam Bộ đã bào chế thành công thuốc Filatov, giúp nhiều cán bộ, chiến sĩ và người dân vượt qua bệnh tật, đặc biệt là bệnh sốt rét vốn hoành hành dữ dội bấy giờ.

Trong cuốn sách “Căn cứ Xứ uỷ Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam ở U Minh, giai đoạn từ 1949 đến cuối 1955”, đã in nhiều hồi ký của cựu học sinh Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn và Trường Trung học Kháng chiến Nguyễn Văn Tố. Những trang hồi ký đã ghi lại tình đất, tình người ở vùng căn cứ này thời kháng chiến đầy xúc động.

Cũng trên mảnh đất này, đã đón tiếp rất nhiều cán bộ, bộ đội các tỉnh Nam Bộ về chuẩn bị tập kết ra Bắc, năm 1954. Cây vú sữa từ bên bờ kênh xáng Chắc Băng, thuộc xã Trí Phải, của má Lê Thị Sảnh gửi ra Bắc, được Bác Hồ trồng bên nhà sàn, trở thành biểu tượng cao đẹp của Nhân dân miền Nam với Bác Hồ và Bác Hồ với Nhân dân miền Nam.

Hơn hơn 70 năm thành lập, trong thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội, 2 xã Biển Bạch và Trí phải được chia tách, sáp nhập nhiều lần.

Xã Trí Phải hiện nay là Trí Phải và Trí Lực. Lực cũng là tên của chiến sĩ Vệ quốc Ðoàn, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, được ghép cùng tên Trí để đặt tên cho xã mới; xã Biển Bạch, nay là 3 xã: Biển Bạch, Tân Bằng  và Biển Bạch Ðông. Năm xã này được Nhà nước xét công nhận xã “An toàn khu” trong 2 cuộc kháng chiến và 5 xã này đều đạt chuẩn xã nông thôn mới trong thời kỳ xây dựng và phát triển quê hương, đất nước./.

 

Chung Thanh Thuỷ

 

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến - Tiếng nói của khát vọng độc lập, tự do

Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.

Từ Báo Chiến đến Báo Cà Mau

Từ những năm 1946, trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, tờ báo của Ðảng bộ tỉnh chúng ta ra đời, có tên là báo Chiến, thời đó bao gồm 2 tỉnh, Cà Mau và Bạc Liêu ngày nay. Báo Chiến ra mỗi tuần 1 kỳ, 4 trang, khổ giấy manh, in bằng giấy sáp.

Tây Nam Bộ lịch sử qua ống kính (1954-1975)

Được phát hành vào tháng 4 vừa qua, tập sách ảnh đen trắng “Tây Nam Bộ kháng chiến - Lịch sử qua ống kính (1945-1975)” truyền đi thông điệp mạnh mẽ về khát vọng hoà bình, độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Ðây là công trình kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025), 100 năm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925-21/6/2025).

Kỷ vật trở về

Ông Ðinh Anh Toàn, Phó Giám đốc Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Cà Mau, cho biết: Tỉnh nhận 465 bộ hồ sơ cán bộ "đi B" từ Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, 2 lần tổ chức trao lại gần 40 hồ sơ, hiện vật. Những buổi lễ trang trọng ấy không chỉ là sự kiện trao trả kỷ vật mà còn là những cuộc hội ngộ của ký ức, tiếp thêm niềm tin và hy vọng cho hành trình đi tìm dấu vết người thân, kéo dài hơn nửa thế kỷ.