ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 7-6-25 17:29:03
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Thăm trường cũ

Báo Cà Mau Hơn 8 giờ sáng, tôi đến Bàu Hang, xã Nguyễn Huân, huyện Ðầm Dơi, nơi Trường Sư phạm PT3 khoá 1972-1973 đóng quân. Ðến nơi, thấy bà con tập hợp khá đông để đón thầy trò Trường Sư phạm Tây Nam Bộ (SPT3).

Hơn 8 giờ sáng, tôi đến Bàu Hang, xã Nguyễn Huân, huyện Ðầm Dơi, nơi Trường Sư phạm PT3 khoá 1972-1973 đóng quân. Ðến nơi, thấy bà con tập hợp khá đông để đón thầy trò Trường Sư phạm Tây Nam Bộ (SPT3).

Tôi được phân công đến trước báo cáo với bà con và chính quyền địa phương thời gian đoàn đến. Ðúng 9 giờ 50 phút, chiếc cao tốc từ Cà Mau đưa đoàn học viên và thầy cô về thăm chốn cũ, nơi đã từng học tập và rèn luyện suốt thời gian dài của những ngày chiến tranh lửa khói.

Mô hình Trường SPT3 tại xã Nguyễn Huân, huyện Ðầm Dơi, do Hoạ sĩ Ngô Thanh Hùng vẽ lại.

Giờ đây, mọi người quây quần, tay bắt mặt mừng, nói cười rôm rả… Bà con đón chúng tôi như đón những người thân vừa đi xa về với một nỗi niềm cảm xúc “vui sao nước mắt lại trào” sau 40 năm dài gặp lại. Nhớ lại thuở chúng tôi là những chàng trai, cô gái mười tám đôi mươi - tuổi xuân phơi phới từ khắp niềm sông nước miền Tây về đây - trên mảnh đất này, nơi thắm đượm tình dân nghĩa Ðảng, nơi đã đùm bọc chở che bảo đảm an toàn cho chúng tôi trong những ngày chiến tranh ác liệt nhất.

Hôm nay, trở lại Bàu Hang cảnh cũ người xưa đã lắm đổi thay. Các cô chú trung niên giờ đã trở thành cụ ông, cụ bà; lớp thanh niên chúng tôi người trẻ nhất khi xưa giờ cũng ở tuổi lục tuần; lớp thanh niên khi trường đóng quân chưa có nay cũng theo gia đình họp mặt với trường. Bàu Hang xưa, đồng ruộng cây lúa vàng hạt trĩu bông, vườn cây trái xum xuê, các loại cá đồng nhiều vô kể, giờ là những đầm tôm, nước loang loáng. Duy có một điều không đổi thay là tình người dân Bàu Hang đối với thầy, trò Trường SPT3 vẫn đậm đà như thuở ấy và thầy, trò Trường SPT3 vẫn khắc sâu tình cảm đối với những tấm lòng nhân hậu, chân chất, thuỷ chung!

Bà con rất hài lòng khi nghe thầy Hiệu trưởng Mai Văn Giai (Bảy Tân) phát biểu ôn lại nghĩa tình thắm thiết, sự giúp đỡ hào hiệp không vụ lợi của bà con xóm Bàu Hang. Chị Kim Ngân đại diện học viên phát biểu nói lên sự biết ơn và tình cảm của thầy, trò Trường SPT3 đối với Bàu Hang. Những món quà ân tình được các bạn trao tận tay cho các gia đình ngày xưa là chỗ nương tựa của trường. Ðại diện đoàn trao quyển “Hồi ký Trường Sư phạm Tây Nam Bộ dấu ấn cả đời tôi” cho UBND xã Nguyễn Huân, Trường THCS Nguyễn Huân và chính quyền cùng Nhân dân Bàu Hang.

Cơn mưa đầu mùa bất chợt, con đường đất trơn trợt nhưng không ngăn được bước chân người. Thầy Bảy Tân và cô Ba Thịnh trở lại nền nhà cũ nơi thầy cô và em Tèo sống suốt thời gian dài. Các bạn học viên trở về thăm nhà chú Tư Cường, thăm nền đất nơi mái trường xưa nhiều kỷ niệm… Rồi mọi người bịn rịn ra về khi đất Bàu Hang như “níu lấy” chân người mãi mãi…

Giờ đây nhớ lại, ngày ấy khi được thông báo đi học, chúng tôi theo đường giao liên, đường đi phải qua sông qua lộ, qua đồn bót giặc, gian nan lắm mới đến được Bàu Hang. Ban đầu, chúng tôi lao động theo sự hướng dẫn của thầy cô như: phân công số người đắp nền đất; số đi xuống rừng đốn cây làm cột kèo đòn tay để làm sườn nhà; số đi xuống rạch Cái Bẹ đốn lá dừa nước về lợp mái nhà, dừng vách…

Không bao lâu ngôi trường được dựng lên trên mảnh đất chú Tư Cường, các mái nhà nho nhỏ của các tổ, của thầy cô cũng được dựng lên hoàn tất. Lớp Trung cấp Sư phạm (khoá 1972-1973) được khai giảng dưới sự lãnh đạo của thầy Hiệu trưởng Bảy Tân cùng các thầy cô: thầy Hai Hiên, thầy Bảy Năm, cô Ba Thịnh và chị y tá Sáu Duyên…

Những năm chiến tranh không có lương, chúng tôi muốn cải thiện cuộc sống không cách nào khác là phải tổ chức đi lao động. Mùa cấy, chúng tôi cấy mướn cho đất chú Hai Cai ở tận miệt Tân Hoà cách khá xa Bàu Hang. Chúng tôi phải ở lại đó vài hôm mới về. Một đặc điểm vùng đất này là đất phát nên phải cấy bằng nọc, khổ cho các tay “thợ cấy” đất cày như Thanh Bé, Tuyết Minh phải phấn đấu đến xế chiều mới rồi công. Ðến mùa lúa chín, chúng tôi lại tiếp tục đi gặt đất nhà chú Ba Lưu. Chị Kim Ngân là tay gặt giỏi, ngày ấy khó có người bì kịp.

Tuy cuộc sống cực khổ nhưng đã thắt chặt được tình cảm thầy trò, tình đoàn kết yêu thương của người dân Bàu Hang. Bà con sẵn sàng cho cá, cho rau ngoài đồng ruộng để chúng tôi “cải hoạt”, phục vụ cho bữa cơm dẻo, canh ngọt.

Nhớ mùa nắng, nước trên đồng rút xuống các con kinh, lũ cá theo dòng nước xuống đó. Khi nước còn xâm xấp, các chú các lóc, cá trê, cá rô, sặt không vào đìa kịp phải nằm phơi lưng. Ðược bà con cho, chúng tôi tổ chức bắt cá cạn rất nhiều. Ăn không hết, phải làm mắm dự trữ.

Lớp học kết thúc, giã biệt thầy, bạn, chúng tôi tung cánh khắp muôn phương đi gieo chữ. Ðây là lần đầu chúng tôi trở về Bàu Hang thăm trường cũ, thăm bà con, trong lòng mọi người nghe háo hức khi gặp lại những ân nhân của Trường SPT3, những người sống lam lũ nơi một miền quê heo hút nhưng lại có tấm lòng hào hiệp, mênh mông. Một điều đáng nói là, suốt khoá học chúng tôi luôn được người dân bảo vệ an toàn, nhờ vậy mà hoàn thành nhiệm vụ học tập.

Cũng chính lần này, chúng tôi ôn lại thời chiến tranh, một thời để nhớ. Nhớ những học viên được đào tạo tại mái Trường SPT3, được trang bị kiến thức văn hoá, được rèn cho mình có lý tưởng cộng sản cao đẹp. Ðể lại dấu ấn tốt đẹp nhất là những học viên tự nguyện cầm súng chiến đấu. Ðó là anh La Phát Trinh (Hai Phát) người Bí thư Xã uỷ, kiêm Xã đội trưởng xã Bảy Ðồng, hy sinh anh dũng khi bao vây đánh đồn Cây Nổ. Anh có sáng kiến độc đáo làm cho quân thù khiếp sợ, đó là dùng ná dây thun bắn lựu đạn vào đồn địch. Anh Từ Thanh Toàn, anh Trần Hữu Nghiệp hy sinh ngoài mặt trận khi tuổi vừa mười tám, đôi mươi. Anh Lê Ðoàn Kết, anh Mai Văn Bé dù lọt vào hang hùm miệng sói vẫn giữ vững khí tiết của người chiến sĩ giải phóng quân, các anh đã làm cho kẻ thù khiếp đảm trước tinh thần thép.

Cuộc hội ngộ sao thời gian nhanh quá, đã đến lúc chia tay người đi kẻ ở. Bà con tiễn chúng tôi tận bến sông với nghĩa tình sâu đậm! Giã biệt Bàu Hang, chúng tôi đi, mang theo một ân tình, một nỗi nhớ thương!./.

Phạm Ngọc Ánh

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.