So với các tỉnh, thành khác của khu vực ĐBSCL, Bạc Liêu là nơi tập trung nhiều làng nghề truyền thống và có những sản phẩm nổi tiếng từ lâu. Ưu điểm của làng nghề là giúp người nông dân kiếm thêm thu nhập lúc nông nhàn, tận dụng được nhiều nguồn nguyên liệu vốn rất dồi dào ở địa phương và nhiều lao động ở mọi lứa tuổi đều có thể tham gia.
Cần quan tâm phát triển nguồn nhân lực làng nghề
Lâu nay, nhiều địa phương cứ than vãn là các ngành nghề đào tạo cho lao động nông thôn (LĐNT) khó thu hút được học viên, do người học không tìm được việc làm sau khi đào tạo... Trong khi ấy, nhu cầu lao động phục vụ cho các làng nghề lại rất cần, nhưng lại không có lao động. Bà Trương Thị Bạch Thủy, chủ cơ sở đan đát Thủy Tuyết (chuyên sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thị trấn Phước Long, huyện Phước Long), cho biết: “Để có lao động sản xuất hàng cung cấp cho các đối tác, mấy năm qua, tôi phải thuê lao động ngoài địa phương. Còn kiếm lao động tại chỗ rất khó”.
![]() |
Nghề đan đát ở huyện Phước Long (ảnh trái) và nghề rèn (ảnh phải) ở huyện Hồng Dân. Ảnh: LD |
Nếu các làng nghề được quan tâm đầu tư, khai thác tốt nguồn nhân lực sẽ mang lại những hiệu quả không nhỏ cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp - nông thôn. Các làng nghề truyền thống của tỉnh hiện nay đã góp phần giải quyết việc làm thường xuyên và tạo thu nhập cho hàng ngàn lao động của địa phương, nhất là lao động nữ. Như nghề đan đát ở ấp Mỹ I, xã Vĩnh Phú Đông, huyện Phước Long hiện thu hút hơn 430 hộ, với 2.330 lao động chính và 530 lao động phụ. Hay nghề mộc gia dụng ở ấp Ninh Thạnh II, xã Ninh Hòa, huyện Hồng Dân thu hút hơn 250 hộ và giải quyết việc làm cho 550 lao động. Hoặc nghề muối ở ấp Bửu II, xã Long Điền Đông, huyện Đông Hải cũng giải quyết việc làm cho hơn 1.800 lao động từ 576 hộ sản xuất… Tùy theo làng nghề, sản phẩm làm ra, người lao động có mức thu nhập bình quân từ 50.000 - 100.000 đồng/ngày.
Phát huy giá trị làng nghề
Làng nghề có một vai trò khá đặc biệt ở nhiều vùng nông thôn hiện nay. Có những nghề không phân biệt lứa tuổi, nam, nữ vẫn có thể làm trong thời gian rảnh như: đan đát, bó chổi, dệt chiếu… Vả lại, một số nghề còn tận dụng được nguồn nguyên liệu dồi dào ở địa phương như: lục bình, bẹ chuối, lác, tre, trúc… Xét ở một khía cạnh nào đó, phát triển và lưu giữ các làng nghề truyền thống không đơn thuần chỉ để giải quyết thời gian nông nhàn, tăng thu nhập cho LĐNT như lâu nay các ngành vẫn bàn, vẫn nói, mà nó còn bảo tồn nét đẹp về văn hóa và cũng là giải pháp căn cơ để giữ nguồn lao động cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp - nông thôn.
Theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về đào tạo nghề cho LĐNT, việc phát huy giá trị từ các làng nghề gắn công tác đào tạo nghề cho LĐNT cũng được thể hiện rất rõ. Do đó, Bạc Liêu phải biết tranh thủ các thế mạnh sẵn có nhằm phát huy nguồn nhân lực ở vùng nông thôn. Đây cũng là việc làm tích cực góp phần thực hiện thắng lợi Quyết định 1956 và mở ra nhiều cơ hội mới cho làng nghề truyền thống và cả LĐNT. Tuy nhiên, cùng với công tác đào tạo nghề, cần quan tâm và đầu tư nhiều hơn nữa về vốn, kỹ thuật, trang thiết bị cho các làng nghề và cả đầu ra của sản phẩm.
KIM TRUNG