ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 18-1-25 17:01:32
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Tiếp thu thị trấn Cà Mau

Báo Cà Mau

Cầu Quay Cà Mau vào thập niên 40 (hiện nay là đoạn Công ty Cổ phần Cấp nước Cà Mau). Ảnh tư liệu

Cầu Quay Cà Mau vào thập niên 40 (hiện nay là đoạn Công ty Cổ phần Cấp nước Cà Mau). Ảnh tư liệu

Khi những sự sôi nổi, bồng bột bên ngoài đã lắng dịu, ta mới có đủ cái nhìn rõ rệt ở bên trong. Ðâu phải Cà Mau không nhiễm độc. Nơi nào giặc lê lết lại không lây tệ hại? Và, không những chúng lây mà còn gieo thêm nhiều nữa. Ðàng điếm, lưu manh, rượu chè, trộm cắp... Càng sâu độc là chúng tập trung tuyên truyền: “Việt Minh độc ác, dã man, phiến loạn...”. Chúng cố biến những người yêu nước thành kẻ man rợ, phản giống nòi như bọn tay sai của chúng. Và điều hệ trọng là làm sao cho dân tin theo như vậy. Lúc tôi vào phòng thông tin và phòng tác động tinh thần, vẫn còn đầy rẫy những sách báo, tranh ảnh “Việt Minh mổ bụng trẻ con, chặt đầu sản phụ, tàn sát tôn giáo”... mà địch cố tình để lại (giờ phút chót địch vẫn tuyên truyền xảo trá, còn 2 cái máy đèn, máy nước nặng nề kia, thì chúng lại đem theo). Do đó, đồng bào còn một số ít e dè, sợ sệt ta. Nếu bạn là nhân viên chính phủ đi qua đường phố, bạn thấy nếp sinh hoạt vẫn bình thường. Nhưng bạn hãy giả lơ nhìn sang cửa kiếng của dãy phố bên kia, bạn sẽ thấy những gương mặt lấm lét, tò mò trông theo bạn.

Có một lần, tôi vào hẻm phố kiếm người quen. Phố xá xiêu vẹo, đường đi lằng nhằng, nhà không bảng số. Tôi ghé căn gác nọ hỏi thăm, người con gái tóc rối bời, đang ngồi coi kinh thánh, chợt thấy tôi, chị liền xanh mặt. Chị không chỉ giùm nhà tôi muốn kiếm, mà lo “thanh minh” về mình, mặc dù tôi không đá động gì chuyện đó:

- Thú thật với ông, tôi là người có đạo. Ðạo là... thờ Chúa, và làm lành, chớ không ác hại đến ai. Nếu có, tôi chịu tội. Ông không tin, xem thử cuốn kinh coi - Lời chị lấp vấp, giọng chị run run.

Tôi lấy làm lạ, nói:

- Chị đọc kinh cứ đọc, có sao đâu.

Ðôi mắt chị vẫn lo lắng, và một lúc sau, chị cứ trút nỗi lòng (có lẽ là chị cho rằng mình bị bắt “quả tang” về tội “đọc kinh!”).

 - Hôm Tây rút về Bạc Liêu, các gia đình có đạo Thiên Chúa, phần đông đều đi hết. Còn tôi, hoàn cảnh nghèo, tới xứ lạ, không phương gì sống, nên mới liều ở lại đây - Cái tiếng “liều” chị nói nặng nề, bao trùm một cái gì ghê rợn. Khi tôi hỏi nguyên nhân nào thì chị trả lời nghe cũng rất “liều”:

- Lâu nay tôi nghe... nói Việt Minh cấm đạo. Nếu biết ai có đạo thì họ thường bắt cóc, giết đi!

Rồi ngày tháng vẫn trôi nhẹ nhàng, thư thả như mây trắng trôi trên nền trời thu xanh biếc. Ngôi chùa Quan Âm, nằm cạnh gốc cây bàng cao tuổi, khuya nào cũng nghe tiếng chuông công phu, trầm vang, thoát tục. Và, thấy Cao Ðài Phật Mẫu, trong những ngày Rằm, ngày vía đều rộn ràng tiếng trống, ngân nga tiếng đồng nữ đọc kinh. Sự e dè, nghi kỵ của người ta, không thể giải thích trong một sớm một chiều, mà để thực tế trả lời là hơn tất cả. Có những ông cha, bà phước ở Sài Gòn, Long Xuyên, hoặc Sóc Trăng, bây giờ mới dám thập thò xuống Cà Mau coi cho biết “tôn giáo ở đây mất hay còn!". Bao nhiêu cuộc tiếp xúc với Uỷ ban Quân chính thị trấn, với tín đồ của họ, cái mưu mô hiểm độc của bọn tác động tinh thần đã lòi ra trơ trẽn.

Thế rồi không ai bảo ai, đồng bào tôn giáo dần dần tin tưởng và ủng hộ chánh quyền ta. Họ bắt đầu tham gia bất cứ việc gì của cách mạng, vì họ coi chính quyền này thật sự có tự do tín ngưỡng và thật sự là chính quyền của Nhân dân.

Tiếng máy xe đò hù hụ nổi lên trong lúc gà ngoại ô chưa kịp gáy. Quen tai, nên vừa chừng đó là chúng tôi thức dậy rồi. Và, cái việc lao động đầu tiên là “gánh ky, cần xé lên đường”. Ở chợ Cà Mau hồi đó, có cái đường lầy lội, cái cống “no hơi”, cái cầu tiêu “sình bụng”, cái đống rác “ợ chua”, cái xóm nghèo xơ xác nào mà chúng tôi không biết. Giặc Pháp và bọn bù nhìn đã bòn xương, hút máu Cà Mau và để lại cho Cà Mau những bệnh hoạn đầy thân thể. Khu trường học, khu nhà xác, khu phố Cao Ðài Kênh 16, vùng hậu rạp hát Huê Tinh, vùng bến xe cũ, vùng Cầu Quay, vùng chùa Phật Tổ... Những vùng đó, chúng tôi dùng đôi vai của chiến sĩ Nhân dân gánh đá, đẩy lùi sình lầy, ruồi muỗi và đặt lên đó những trụ đèn điện, những vòi nước máy, để cải thiện đời sống cho đồng bào nghèo khổ.

 Khuya, hễ nghe tiếng xộc xạc của đá, tiếng phựt phựt cuốc đất, tiếng đùi đụi của bước chân bộ đội, nhiều đồng bào cũng thức dậy ra làm phụ. Từ xa lạ đến quen biết, rồi thông cảm, rồi thương mến, đồng bào nhất định không để riêng bộ đội làm, họ coi bộ đội như con em của họ, nên họ đã hoà thân khắng khít. Anh Thái, chỉ huy đơn vị chúng tôi, phải họp anh em lại đề ra “kế hoạch”:

- Từ nay, khuya đi làm công tác, phải đi nhè nhẹ, để cho đồng bào yên giấc, vì phần nhiều đồng bào là Nhân dân lao động đi sớm về trưa, làm lụng nặng nề.

Chúng tôi đồng ý thực hiện. Hễ gần tới chỗ đổ đá thì nhón gót đi nhẹ lại, để cần xé xuống, rồi đổ nghiêng nghiêng cho ít tiếng động. Vậy mà đồng bào cũng phát hiện được, họ chế giễu chúng tôi là quân chủ lực mà đánh “du kích”. Họ cằn nhằn chúng tôi là ham làm nặng một mình.

Rồi đồng bào lại tiếp tay bưng đá, cuốc đất, vét cống... y như là cha mẹ, anh em trong nhà vậy.

Cà Mau thay đổi bộ mặt đau thương, u ám. Nó mới hẳn lên.

Tuy không sang trọng, xa hoa, nhưng nó là thị trấn của "tự do" và "trong sạch". Không phải chỉ sạch rác rưởi, sình lầy mà còn sạch cả cờ bạc, trộm cắp, điếm đàng...

Cái thị trấn tự do sạch đẹp làm sao! Ðẹp như những chiếc khăn lụa hồng quàng trên vai của các đoàn ca sĩ thiếu nhi, rộn rã trên khắp phố phường. Ðẹp như những trường học mở cửa cả ngày lẫn đêm, đủ lớp, đủ hạng để nâng cao trình độ đồng bào. Ðẹp như những người lao động được tăng lương, quý trọng. Ðẹp như những cảnh binh luôn luôn nhã nhặn, giúp đỡ mọi người.

Ngọn gió bấc rì rào trên khóm trúc, gợi nhớ thị trấn cũ. Nhớ phố phường tao nhã, lịch sự của Cà Mau, khi về tay cách mạng, nhớ vẻ mặt vui tươi rạng rỡ của đồng bào Cà Mau, khi được sống tự do. Nhớ những thảm lúa xanh yêu kiều phía lộ mới, phía rẫy dưa, mà chúng tôi đã cấy tiếp với đồng bào dạo nọ.

Xa Cà Mau từ cuối năm 1954, tôi nghe tin những khu phố lao động của Cà Mau bị đuổi dời để cho những dãy lầu mới mọc lên; những dòng khẩu hiệu yêu nước bị bôi xoá; những bảng ghi ngày thống nhất đất nước bị chà đạp và khắc nghiệt, đàn áp cứ đè nặng đồng bào thị xã. Ngày xưa, lúc tôi đến đây, Cà Mau là thị trấn; ngày nay, lúc tôi ghé ngang trên đường đi kháng Mỹ, Cà Mau là thị xã.

Sự đổi thay của hình thức chẳng có gì đẹp lắm đâu, nếu không nói là tệ hại, bởi cái bề trong của nó càng dơ bẩn, nhuốc nhơ hơn cả thời Pháp chiếm. Chỉ có một màu trắng, chói ngời. Ðó là những tấm lòng trong sạch của những người dân bất khuất, trung kiên, giữ mãi ý chí anh hùng. Dưới ngọn cờ vinh quang của Mặt trận, họ đã dũng cảm chiến đấu trong lòng địch từng giây, từng phút, để giành độc lập. Họ đạp lên lưỡi lê, họng súng và trên cả đầu thù, để đòi hỏi tự do. Họ tin chắc rằng, bão lửa cách mạng sẽ nổi lên dữ dội, quét sạch mọi tàn tích bẩn thỉu. Và, khắp phố phường Cà Mau sẽ đầy cờ giải phóng./.

 

Nguyễn Mai

 

Miền nhớ thiêng liêng

Chuỗi hoạt động Kỷ niệm 70 năm Sự kiện tập kết ra Bắc diễn ra trang trọng, ý nghĩa trên đất Cà Mau. Ngược miền ký ức, những cán bộ, chiến sĩ, học sinh, đồng bào miền Nam như được sống lại giai đoạn thiêng liêng của cuộc chuyển quân lịch sử. Họ gặp lại nhau, cảm xúc dâng trào, bao câu chuyện về những ngày chiến đấu, lao động, học tập nối mạch ùa về...

Ðại tá từ du kích

Trong các bạn bè, đồng đội cùng hàm, trên dưới tuổi tám mươi, Ðại tá Trần Công Bình (Út Bình) có lẽ là người đậm chất từ du kích, tên ông gắn liền với du kích Thạnh Phú một thời lẫy lừng chốt chặn phía Nam tỉnh lỵ An Xuyên, bảo vệ vùng giải phóng Nhà Phấn, Rạch Mũi trong tầm đại bác của địch.

Nửa đời tìm nhau

Ở các địa phương miền Tây Nam Bộ, chúng tôi tìm gặp một số cán bộ lão thành, học sinh miền Nam (HSMN) tập kết ra Bắc năm 1954. Trong câu chuyện kể của họ, ngoài ký ức đẹp về tấm lòng Nhân dân miền Bắc dành cho HSMN tham gia học tập, từ nơi ở, chén cơm, manh áo... còn là những mối tình “cơ duyên trời định”. Người còn sống giờ tuổi đã ngoài 80, nhưng khi nhắc nhớ về kỷ niệm ở miền Bắc, họ lại ngời lên những ký ức năm xưa.

Người về bến cũ

Bến Sông Ðốc - địa danh gắn liền với sự kiện lịch sử chuyến tàu tập kết, những ngày cuối năm 2024 chứng kiến cuộc hội ngộ đặc biệt của cựu học sinh miền Nam. Họ, những người từng bước lên tàu rời quê hương cách đây 70 năm để ra Bắc học tập, cống hiến, nay trở lại bến xưa với mái đầu bạc trắng và trái tim ngập tràn cảm xúc.

Về căn cứ xưa, nghe kể chuyện chở che bộ đội đánh giặc...

Trong kháng chiến chống Mỹ, Xẻo Trê (thuộc ấp Lý Ấn, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước) được chọn làm nơi đóng quân của Ban Chỉ huy Tỉnh đội. Suốt 9 năm (1964-1973), căn cứ Xẻo Trê vẫn giữ được bí mật, an toàn tuyệt đối, tạo sức mạnh để tấn công kẻ địch. Ðó là nhờ vào lòng dân luôn đùm bọc che chở, hết lòng vì cách mạng, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ khu căn cứ.

Nơi lý tưởng để giáo dục truyền thống

Di tích lịch sử cấp tỉnh “Cây me Rạch Gốc” (toạ lạc tại ấp Rạch Gốc, xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển), địa điểm minh chứng cho truyền thống lịch sử của vùng đất Tân Ân, được chính quyền địa phương và người dân nơi đây trân trọng, giữ gìn và phát huy giá trị.

Biểu tượng bất tử

Đền thờ 10 Anh hùng liệt sĩ Khởi nghĩa Hòn Khoai uy nghiêm giữa lòng TP Cà Mau. Công trình là biểu tượng bất tử của truyền thống anh hùng cách mạng, trang sử vàng của vùng đất cuối trời cực Nam Tổ quốc.

Thư từ Vàm Lũng

Thư từ Vàm Lũng

Truyền thống anh hùng vinh quang tiếp nối

Trong tiết trời se lạnh mỗi độ xuân về, trong mỗi người con đất Việt luôn nguyên vẹn niềm vui, tự hào khi có Ðảng. Ðặc biệt hơn, bước sang năm 2025, đất nước ta đón sự kiện quan trọng là đại hội Ðảng các cấp, đây là dịp để Ðảng ta tiếp tục chọn ra những cán bộ, đảng viên ưu tú tham gia thực hiện trách nhiệm thiêng liêng vì mục tiêu: làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Ngôi trường Nhà Máy

Vừa rời khỏi lớp Giáo khoa của Nha Giáo dục Nam Bộ đào tạo giáo viên cấp tốc 3 tháng ở vàm Rạch Ráng (do Tiến sĩ Hoàng Xuân Nhị, Giám đốc Nha Giáo dục Nam Bộ làm Hiệu trưởng), tôi được chú Nguyễn Tạo, Trưởng ty Giáo dục Bạc Liêu, giao nhận nhiệm vụ Hiệu trưởng Trường Tiểu học ấp Nhà Máy, xã Khánh Bình Tây (gồm lớp Nhì A, lớp Nhì B, lớp Ba, lớp Tư, có trên 150 học sinh hết thảy). Hôm đó là ngày lịch sử vẻ vang của đất nước.