ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 15-11-24 00:50:14
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Tiếp thu thị trấn Cà Mau

Báo Cà Mau

Cầu Quay Cà Mau vào thập niên 40 (hiện nay là đoạn Công ty Cổ phần Cấp nước Cà Mau). Ảnh tư liệu

Cầu Quay Cà Mau vào thập niên 40 (hiện nay là đoạn Công ty Cổ phần Cấp nước Cà Mau). Ảnh tư liệu

Khi những sự sôi nổi, bồng bột bên ngoài đã lắng dịu, ta mới có đủ cái nhìn rõ rệt ở bên trong. Ðâu phải Cà Mau không nhiễm độc. Nơi nào giặc lê lết lại không lây tệ hại? Và, không những chúng lây mà còn gieo thêm nhiều nữa. Ðàng điếm, lưu manh, rượu chè, trộm cắp... Càng sâu độc là chúng tập trung tuyên truyền: “Việt Minh độc ác, dã man, phiến loạn...”. Chúng cố biến những người yêu nước thành kẻ man rợ, phản giống nòi như bọn tay sai của chúng. Và điều hệ trọng là làm sao cho dân tin theo như vậy. Lúc tôi vào phòng thông tin và phòng tác động tinh thần, vẫn còn đầy rẫy những sách báo, tranh ảnh “Việt Minh mổ bụng trẻ con, chặt đầu sản phụ, tàn sát tôn giáo”... mà địch cố tình để lại (giờ phút chót địch vẫn tuyên truyền xảo trá, còn 2 cái máy đèn, máy nước nặng nề kia, thì chúng lại đem theo). Do đó, đồng bào còn một số ít e dè, sợ sệt ta. Nếu bạn là nhân viên chính phủ đi qua đường phố, bạn thấy nếp sinh hoạt vẫn bình thường. Nhưng bạn hãy giả lơ nhìn sang cửa kiếng của dãy phố bên kia, bạn sẽ thấy những gương mặt lấm lét, tò mò trông theo bạn.

Có một lần, tôi vào hẻm phố kiếm người quen. Phố xá xiêu vẹo, đường đi lằng nhằng, nhà không bảng số. Tôi ghé căn gác nọ hỏi thăm, người con gái tóc rối bời, đang ngồi coi kinh thánh, chợt thấy tôi, chị liền xanh mặt. Chị không chỉ giùm nhà tôi muốn kiếm, mà lo “thanh minh” về mình, mặc dù tôi không đá động gì chuyện đó:

- Thú thật với ông, tôi là người có đạo. Ðạo là... thờ Chúa, và làm lành, chớ không ác hại đến ai. Nếu có, tôi chịu tội. Ông không tin, xem thử cuốn kinh coi - Lời chị lấp vấp, giọng chị run run.

Tôi lấy làm lạ, nói:

- Chị đọc kinh cứ đọc, có sao đâu.

Ðôi mắt chị vẫn lo lắng, và một lúc sau, chị cứ trút nỗi lòng (có lẽ là chị cho rằng mình bị bắt “quả tang” về tội “đọc kinh!”).

 - Hôm Tây rút về Bạc Liêu, các gia đình có đạo Thiên Chúa, phần đông đều đi hết. Còn tôi, hoàn cảnh nghèo, tới xứ lạ, không phương gì sống, nên mới liều ở lại đây - Cái tiếng “liều” chị nói nặng nề, bao trùm một cái gì ghê rợn. Khi tôi hỏi nguyên nhân nào thì chị trả lời nghe cũng rất “liều”:

- Lâu nay tôi nghe... nói Việt Minh cấm đạo. Nếu biết ai có đạo thì họ thường bắt cóc, giết đi!

Rồi ngày tháng vẫn trôi nhẹ nhàng, thư thả như mây trắng trôi trên nền trời thu xanh biếc. Ngôi chùa Quan Âm, nằm cạnh gốc cây bàng cao tuổi, khuya nào cũng nghe tiếng chuông công phu, trầm vang, thoát tục. Và, thấy Cao Ðài Phật Mẫu, trong những ngày Rằm, ngày vía đều rộn ràng tiếng trống, ngân nga tiếng đồng nữ đọc kinh. Sự e dè, nghi kỵ của người ta, không thể giải thích trong một sớm một chiều, mà để thực tế trả lời là hơn tất cả. Có những ông cha, bà phước ở Sài Gòn, Long Xuyên, hoặc Sóc Trăng, bây giờ mới dám thập thò xuống Cà Mau coi cho biết “tôn giáo ở đây mất hay còn!". Bao nhiêu cuộc tiếp xúc với Uỷ ban Quân chính thị trấn, với tín đồ của họ, cái mưu mô hiểm độc của bọn tác động tinh thần đã lòi ra trơ trẽn.

Thế rồi không ai bảo ai, đồng bào tôn giáo dần dần tin tưởng và ủng hộ chánh quyền ta. Họ bắt đầu tham gia bất cứ việc gì của cách mạng, vì họ coi chính quyền này thật sự có tự do tín ngưỡng và thật sự là chính quyền của Nhân dân.

Tiếng máy xe đò hù hụ nổi lên trong lúc gà ngoại ô chưa kịp gáy. Quen tai, nên vừa chừng đó là chúng tôi thức dậy rồi. Và, cái việc lao động đầu tiên là “gánh ky, cần xé lên đường”. Ở chợ Cà Mau hồi đó, có cái đường lầy lội, cái cống “no hơi”, cái cầu tiêu “sình bụng”, cái đống rác “ợ chua”, cái xóm nghèo xơ xác nào mà chúng tôi không biết. Giặc Pháp và bọn bù nhìn đã bòn xương, hút máu Cà Mau và để lại cho Cà Mau những bệnh hoạn đầy thân thể. Khu trường học, khu nhà xác, khu phố Cao Ðài Kênh 16, vùng hậu rạp hát Huê Tinh, vùng bến xe cũ, vùng Cầu Quay, vùng chùa Phật Tổ... Những vùng đó, chúng tôi dùng đôi vai của chiến sĩ Nhân dân gánh đá, đẩy lùi sình lầy, ruồi muỗi và đặt lên đó những trụ đèn điện, những vòi nước máy, để cải thiện đời sống cho đồng bào nghèo khổ.

 Khuya, hễ nghe tiếng xộc xạc của đá, tiếng phựt phựt cuốc đất, tiếng đùi đụi của bước chân bộ đội, nhiều đồng bào cũng thức dậy ra làm phụ. Từ xa lạ đến quen biết, rồi thông cảm, rồi thương mến, đồng bào nhất định không để riêng bộ đội làm, họ coi bộ đội như con em của họ, nên họ đã hoà thân khắng khít. Anh Thái, chỉ huy đơn vị chúng tôi, phải họp anh em lại đề ra “kế hoạch”:

- Từ nay, khuya đi làm công tác, phải đi nhè nhẹ, để cho đồng bào yên giấc, vì phần nhiều đồng bào là Nhân dân lao động đi sớm về trưa, làm lụng nặng nề.

Chúng tôi đồng ý thực hiện. Hễ gần tới chỗ đổ đá thì nhón gót đi nhẹ lại, để cần xé xuống, rồi đổ nghiêng nghiêng cho ít tiếng động. Vậy mà đồng bào cũng phát hiện được, họ chế giễu chúng tôi là quân chủ lực mà đánh “du kích”. Họ cằn nhằn chúng tôi là ham làm nặng một mình.

Rồi đồng bào lại tiếp tay bưng đá, cuốc đất, vét cống... y như là cha mẹ, anh em trong nhà vậy.

Cà Mau thay đổi bộ mặt đau thương, u ám. Nó mới hẳn lên.

Tuy không sang trọng, xa hoa, nhưng nó là thị trấn của "tự do" và "trong sạch". Không phải chỉ sạch rác rưởi, sình lầy mà còn sạch cả cờ bạc, trộm cắp, điếm đàng...

Cái thị trấn tự do sạch đẹp làm sao! Ðẹp như những chiếc khăn lụa hồng quàng trên vai của các đoàn ca sĩ thiếu nhi, rộn rã trên khắp phố phường. Ðẹp như những trường học mở cửa cả ngày lẫn đêm, đủ lớp, đủ hạng để nâng cao trình độ đồng bào. Ðẹp như những người lao động được tăng lương, quý trọng. Ðẹp như những cảnh binh luôn luôn nhã nhặn, giúp đỡ mọi người.

Ngọn gió bấc rì rào trên khóm trúc, gợi nhớ thị trấn cũ. Nhớ phố phường tao nhã, lịch sự của Cà Mau, khi về tay cách mạng, nhớ vẻ mặt vui tươi rạng rỡ của đồng bào Cà Mau, khi được sống tự do. Nhớ những thảm lúa xanh yêu kiều phía lộ mới, phía rẫy dưa, mà chúng tôi đã cấy tiếp với đồng bào dạo nọ.

Xa Cà Mau từ cuối năm 1954, tôi nghe tin những khu phố lao động của Cà Mau bị đuổi dời để cho những dãy lầu mới mọc lên; những dòng khẩu hiệu yêu nước bị bôi xoá; những bảng ghi ngày thống nhất đất nước bị chà đạp và khắc nghiệt, đàn áp cứ đè nặng đồng bào thị xã. Ngày xưa, lúc tôi đến đây, Cà Mau là thị trấn; ngày nay, lúc tôi ghé ngang trên đường đi kháng Mỹ, Cà Mau là thị xã.

Sự đổi thay của hình thức chẳng có gì đẹp lắm đâu, nếu không nói là tệ hại, bởi cái bề trong của nó càng dơ bẩn, nhuốc nhơ hơn cả thời Pháp chiếm. Chỉ có một màu trắng, chói ngời. Ðó là những tấm lòng trong sạch của những người dân bất khuất, trung kiên, giữ mãi ý chí anh hùng. Dưới ngọn cờ vinh quang của Mặt trận, họ đã dũng cảm chiến đấu trong lòng địch từng giây, từng phút, để giành độc lập. Họ đạp lên lưỡi lê, họng súng và trên cả đầu thù, để đòi hỏi tự do. Họ tin chắc rằng, bão lửa cách mạng sẽ nổi lên dữ dội, quét sạch mọi tàn tích bẩn thỉu. Và, khắp phố phường Cà Mau sẽ đầy cờ giải phóng./.

 

Nguyễn Mai

 

200 ngày tự do, yên bình

Ngày 20/7/1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, chấm dứt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ của Nhân dân ta. Ðây là một thắng lợi to lớn của Nhân dân ta trên con đường giải phóng dân tộc, là cơ sở pháp lý quốc tế để ta tiếp tục đấu tranh hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân trong cả nước.

Nhiều công trình, phần việc của tuổi trẻ

Nhiều công trình, phần việc được đoàn viên, thanh niên (ÐVTN) chung tay thực hiện hướng đến Kỷ niệm 70 năm Sự kiện tập kết ra Bắc.

Công bố Di tích lịch sử cấp tỉnh “Bia kỷ niệm Bác Hồ với cây vú sữa miền Nam”

Sáng 12/11, UBND tỉnh tổ chức Lễ khánh thành và công bố xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh đối với di tích “Bia kỷ niệm Bác Hồ với cây vú sữa miền Nam” tại Ấp 10 xã Trí Phải, huyện Thới Bình.

Công tác chuẩn bị của Trung ương cho cuộc tập kết (*)

Tháng 9/1954, Tổng Quân uỷ ra Chỉ thị số 123/CT-4 về việc đón tiếp cán bộ, đồng bào miền Nam tập kết ra miền Bắc, quân tình nguyện Việt Nam ở Lào về nước. Chỉ thị nêu rõ: “Việc bộ đội, cán bộ và đồng bào miền Nam ra Bắc cũng nhằm để thi hành đúng hiệp định đình chiến, đồng thời cũng để xây dụng lực lượng vũ trang hùng mạnh, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh chính trị, củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc. Vì vậy, việc đón tiếp bộ đội, cán bộ và đồng bào miền Nam ra miền Bắc tập kết có một ý nghĩa chính trị rất lớn”.

Tiếp thu thị trấn Cà Mau

Chúng tôi tiến vào thị trấn Cà Mau lúc 2 giờ chiều ngày 23/8/1954. Hôm qua, giặc Pháp đã rút toàn bộ lực lượng (kể cả nguỵ quyền) về Bạc Liêu, trong khi chúng chưa bàn giao chính quyền với ta. Bởi vậy, đồng bào tại đây phải sống trọn một đêm chờ đợi.

Tri ân vùng đất gắn liền sự kiện lịch sử cách mạng

Hướng đến kỷ niệm 70 năm sự kiện tập kết ra Bắc (1954-2024), sáng 9/11, thông qua vận động, Đoàn từ thiện thuộc Ban Liên lạc đồng hương Cà Mau - Bạc Liêu về nguồn khám bệnh, cấp thuốc miễn phí và tặng quà cho người dân có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn xã Trí Lực, Trí Phải (huyện Thới Bình) và thị trấn Sông Đốc (huyện Trần Văn Thời).

CÁC HOẠT ĐỘNG KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954 - 2024)

Người tạo dấu ấn

Những ngày lập đông 1954, gió chướng thổi mạnh, không khí lạnh từ biển Ðông ùa vào cửa sông Ông Ðốc, cũng là lúc cán bộ, chiến sĩ, con em các tỉnh Nam Bộ, trong đó có Nguyễn Ngọc Cung, xuống tàu Kilinski của Ba Lan đi tập kết ra Bắc, lên bến Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Không lâu sau đó, trên đất Bắc, Nguyễn Ngọc Cung trở thành thành viên sáng lập: Hội Sân khấu Việt Nam; Hội Nhà văn Việt Nam; Hội Ðiện ảnh Việt Nam. Ông sáng tác kịch bản phim "Biển động" vào cuối năm 1957.

Cà Mau - Trước, trong và sau tập kết

Chúng ta từng biết Cà Mau không phải là vùng đất hoang sơ “khỉ ho cò gáy”, dân trí thấp kém như một vài “học giả” không sát thực tế đã từng nói. Cũng như không phải nơi tận cùng “hải giác thiên nhai” để cho mãnh thú và tội đồ từ các nơi đến ở với “lính trốn và trốn lính” theo một vài cuốn sách nào đó, làm lem ố những dòng lịch sử chói ngời của vùng đất thiêng, bao phen làm điểm tựa cho lịch sử cả miền đồng bằng Nam Bộ.

Tư liệu quý từ ghi chép của người tập kết

Sự kiện tập kết ra Bắc diễn ra đã 70 năm, những yếu tố về lịch sử, chủ trương, đường lối chiến lược của Đảng, Bác Hồ thì sách báo đã đề cập. Tuy vậy, lớp hậu thế muốn tìm hiểu chi tiết vấn đề lại rất ít thông tin. Trong quá trình gặp gỡ, tiếp cận tài liệu từ nhân chứng (còn lại không nhiều), từ thân nhân, từ Bảo tàng tỉnh, chúng tôi bắt gặp những trang nhật ký, ghi chép, hồi ức, qua đó giúp phần nào hình dung lại một giai đoạn lịch sử hết sức đặc biệt này.