ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 1-6-25 07:15:08
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Tiếp thu thị trấn Cà Mau

Báo Cà Mau

Cầu Quay Cà Mau vào thập niên 40 (hiện nay là đoạn Công ty Cổ phần Cấp nước Cà Mau). Ảnh tư liệu

Cầu Quay Cà Mau vào thập niên 40 (hiện nay là đoạn Công ty Cổ phần Cấp nước Cà Mau). Ảnh tư liệu

Khi những sự sôi nổi, bồng bột bên ngoài đã lắng dịu, ta mới có đủ cái nhìn rõ rệt ở bên trong. Ðâu phải Cà Mau không nhiễm độc. Nơi nào giặc lê lết lại không lây tệ hại? Và, không những chúng lây mà còn gieo thêm nhiều nữa. Ðàng điếm, lưu manh, rượu chè, trộm cắp... Càng sâu độc là chúng tập trung tuyên truyền: “Việt Minh độc ác, dã man, phiến loạn...”. Chúng cố biến những người yêu nước thành kẻ man rợ, phản giống nòi như bọn tay sai của chúng. Và điều hệ trọng là làm sao cho dân tin theo như vậy. Lúc tôi vào phòng thông tin và phòng tác động tinh thần, vẫn còn đầy rẫy những sách báo, tranh ảnh “Việt Minh mổ bụng trẻ con, chặt đầu sản phụ, tàn sát tôn giáo”... mà địch cố tình để lại (giờ phút chót địch vẫn tuyên truyền xảo trá, còn 2 cái máy đèn, máy nước nặng nề kia, thì chúng lại đem theo). Do đó, đồng bào còn một số ít e dè, sợ sệt ta. Nếu bạn là nhân viên chính phủ đi qua đường phố, bạn thấy nếp sinh hoạt vẫn bình thường. Nhưng bạn hãy giả lơ nhìn sang cửa kiếng của dãy phố bên kia, bạn sẽ thấy những gương mặt lấm lét, tò mò trông theo bạn.

Có một lần, tôi vào hẻm phố kiếm người quen. Phố xá xiêu vẹo, đường đi lằng nhằng, nhà không bảng số. Tôi ghé căn gác nọ hỏi thăm, người con gái tóc rối bời, đang ngồi coi kinh thánh, chợt thấy tôi, chị liền xanh mặt. Chị không chỉ giùm nhà tôi muốn kiếm, mà lo “thanh minh” về mình, mặc dù tôi không đá động gì chuyện đó:

- Thú thật với ông, tôi là người có đạo. Ðạo là... thờ Chúa, và làm lành, chớ không ác hại đến ai. Nếu có, tôi chịu tội. Ông không tin, xem thử cuốn kinh coi - Lời chị lấp vấp, giọng chị run run.

Tôi lấy làm lạ, nói:

- Chị đọc kinh cứ đọc, có sao đâu.

Ðôi mắt chị vẫn lo lắng, và một lúc sau, chị cứ trút nỗi lòng (có lẽ là chị cho rằng mình bị bắt “quả tang” về tội “đọc kinh!”).

 - Hôm Tây rút về Bạc Liêu, các gia đình có đạo Thiên Chúa, phần đông đều đi hết. Còn tôi, hoàn cảnh nghèo, tới xứ lạ, không phương gì sống, nên mới liều ở lại đây - Cái tiếng “liều” chị nói nặng nề, bao trùm một cái gì ghê rợn. Khi tôi hỏi nguyên nhân nào thì chị trả lời nghe cũng rất “liều”:

- Lâu nay tôi nghe... nói Việt Minh cấm đạo. Nếu biết ai có đạo thì họ thường bắt cóc, giết đi!

Rồi ngày tháng vẫn trôi nhẹ nhàng, thư thả như mây trắng trôi trên nền trời thu xanh biếc. Ngôi chùa Quan Âm, nằm cạnh gốc cây bàng cao tuổi, khuya nào cũng nghe tiếng chuông công phu, trầm vang, thoát tục. Và, thấy Cao Ðài Phật Mẫu, trong những ngày Rằm, ngày vía đều rộn ràng tiếng trống, ngân nga tiếng đồng nữ đọc kinh. Sự e dè, nghi kỵ của người ta, không thể giải thích trong một sớm một chiều, mà để thực tế trả lời là hơn tất cả. Có những ông cha, bà phước ở Sài Gòn, Long Xuyên, hoặc Sóc Trăng, bây giờ mới dám thập thò xuống Cà Mau coi cho biết “tôn giáo ở đây mất hay còn!". Bao nhiêu cuộc tiếp xúc với Uỷ ban Quân chính thị trấn, với tín đồ của họ, cái mưu mô hiểm độc của bọn tác động tinh thần đã lòi ra trơ trẽn.

Thế rồi không ai bảo ai, đồng bào tôn giáo dần dần tin tưởng và ủng hộ chánh quyền ta. Họ bắt đầu tham gia bất cứ việc gì của cách mạng, vì họ coi chính quyền này thật sự có tự do tín ngưỡng và thật sự là chính quyền của Nhân dân.

Tiếng máy xe đò hù hụ nổi lên trong lúc gà ngoại ô chưa kịp gáy. Quen tai, nên vừa chừng đó là chúng tôi thức dậy rồi. Và, cái việc lao động đầu tiên là “gánh ky, cần xé lên đường”. Ở chợ Cà Mau hồi đó, có cái đường lầy lội, cái cống “no hơi”, cái cầu tiêu “sình bụng”, cái đống rác “ợ chua”, cái xóm nghèo xơ xác nào mà chúng tôi không biết. Giặc Pháp và bọn bù nhìn đã bòn xương, hút máu Cà Mau và để lại cho Cà Mau những bệnh hoạn đầy thân thể. Khu trường học, khu nhà xác, khu phố Cao Ðài Kênh 16, vùng hậu rạp hát Huê Tinh, vùng bến xe cũ, vùng Cầu Quay, vùng chùa Phật Tổ... Những vùng đó, chúng tôi dùng đôi vai của chiến sĩ Nhân dân gánh đá, đẩy lùi sình lầy, ruồi muỗi và đặt lên đó những trụ đèn điện, những vòi nước máy, để cải thiện đời sống cho đồng bào nghèo khổ.

 Khuya, hễ nghe tiếng xộc xạc của đá, tiếng phựt phựt cuốc đất, tiếng đùi đụi của bước chân bộ đội, nhiều đồng bào cũng thức dậy ra làm phụ. Từ xa lạ đến quen biết, rồi thông cảm, rồi thương mến, đồng bào nhất định không để riêng bộ đội làm, họ coi bộ đội như con em của họ, nên họ đã hoà thân khắng khít. Anh Thái, chỉ huy đơn vị chúng tôi, phải họp anh em lại đề ra “kế hoạch”:

- Từ nay, khuya đi làm công tác, phải đi nhè nhẹ, để cho đồng bào yên giấc, vì phần nhiều đồng bào là Nhân dân lao động đi sớm về trưa, làm lụng nặng nề.

Chúng tôi đồng ý thực hiện. Hễ gần tới chỗ đổ đá thì nhón gót đi nhẹ lại, để cần xé xuống, rồi đổ nghiêng nghiêng cho ít tiếng động. Vậy mà đồng bào cũng phát hiện được, họ chế giễu chúng tôi là quân chủ lực mà đánh “du kích”. Họ cằn nhằn chúng tôi là ham làm nặng một mình.

Rồi đồng bào lại tiếp tay bưng đá, cuốc đất, vét cống... y như là cha mẹ, anh em trong nhà vậy.

Cà Mau thay đổi bộ mặt đau thương, u ám. Nó mới hẳn lên.

Tuy không sang trọng, xa hoa, nhưng nó là thị trấn của "tự do" và "trong sạch". Không phải chỉ sạch rác rưởi, sình lầy mà còn sạch cả cờ bạc, trộm cắp, điếm đàng...

Cái thị trấn tự do sạch đẹp làm sao! Ðẹp như những chiếc khăn lụa hồng quàng trên vai của các đoàn ca sĩ thiếu nhi, rộn rã trên khắp phố phường. Ðẹp như những trường học mở cửa cả ngày lẫn đêm, đủ lớp, đủ hạng để nâng cao trình độ đồng bào. Ðẹp như những người lao động được tăng lương, quý trọng. Ðẹp như những cảnh binh luôn luôn nhã nhặn, giúp đỡ mọi người.

Ngọn gió bấc rì rào trên khóm trúc, gợi nhớ thị trấn cũ. Nhớ phố phường tao nhã, lịch sự của Cà Mau, khi về tay cách mạng, nhớ vẻ mặt vui tươi rạng rỡ của đồng bào Cà Mau, khi được sống tự do. Nhớ những thảm lúa xanh yêu kiều phía lộ mới, phía rẫy dưa, mà chúng tôi đã cấy tiếp với đồng bào dạo nọ.

Xa Cà Mau từ cuối năm 1954, tôi nghe tin những khu phố lao động của Cà Mau bị đuổi dời để cho những dãy lầu mới mọc lên; những dòng khẩu hiệu yêu nước bị bôi xoá; những bảng ghi ngày thống nhất đất nước bị chà đạp và khắc nghiệt, đàn áp cứ đè nặng đồng bào thị xã. Ngày xưa, lúc tôi đến đây, Cà Mau là thị trấn; ngày nay, lúc tôi ghé ngang trên đường đi kháng Mỹ, Cà Mau là thị xã.

Sự đổi thay của hình thức chẳng có gì đẹp lắm đâu, nếu không nói là tệ hại, bởi cái bề trong của nó càng dơ bẩn, nhuốc nhơ hơn cả thời Pháp chiếm. Chỉ có một màu trắng, chói ngời. Ðó là những tấm lòng trong sạch của những người dân bất khuất, trung kiên, giữ mãi ý chí anh hùng. Dưới ngọn cờ vinh quang của Mặt trận, họ đã dũng cảm chiến đấu trong lòng địch từng giây, từng phút, để giành độc lập. Họ đạp lên lưỡi lê, họng súng và trên cả đầu thù, để đòi hỏi tự do. Họ tin chắc rằng, bão lửa cách mạng sẽ nổi lên dữ dội, quét sạch mọi tàn tích bẩn thỉu. Và, khắp phố phường Cà Mau sẽ đầy cờ giải phóng./.

 

Nguyễn Mai

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.