Cuối năm 2024, tôi có một chuyến về nguồn nhiều mong mỏi. Cái nơi đến chứa chan, ấp ủ nhiều kỷ niệm, lẫn những ray rứt khôn nguôi. Ðội hình gồm có Nguyễn Bé, nguyên Phó chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam; Ðỗ Kiến Quốc, nguyên Giám đốc Ðài Phát thanh - Truyền hình Cà Mau; Nhà văn Phan Trung Nghĩa, nguyên Phó chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam tỉnh Bạc Liêu. Phải kể thêm rằng hôm đó còn có cô Hồng Vân, Báo Cà Mau tháp tùng. Trừ Hồng Vân ra, cả ba đứa giờ đã về hưu, bọn tôi hui hút có nhau từ thời làm Báo Minh Hải. Giờ ba thằng rủ nhau về xã Khánh Bình Ðông, Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Nơi đây là xứ sở của nhà trào phúng dân gian Ba Phi và là địa phận của rừng U Minh xưa.
òn than U Minh âm ỉ cháy qua gian bếp của má Tư ở ấp Lung Tràm, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời. Ảnh: NGUYỄN BÉ
Tôi không nhớ ai đã gợi ý chuyến đi và điểm đến, chỉ nhớ rằng có một cú gật đầu rất chóng vánh và đầy phấn chấn. Cả ba đứa giờ đã là những ông cụ, thế nhưng, chúng tôi đi có lúc thì tâm thế hứng khởi của những chàng phóng viên trẻ, có lúc lại mang tâm trạng ưu tư của những người già tìm về kỷ niệm, muốn gặp lại dấu chân thời trai trẻ in trên đất này. Ðó là một khoảng đời háo hức, có khi nông nổi mà đủ sức làm xốn xang, nặng trĩu người già hôm nay.
Trong ba đứa tôi chỉ có Ðỗ Kiến Quốc là người gửi lại lá nhau cuống rốn ở nơi này. Không chỉ có thế, nó còn gởi ở đó mảnh đất thấm máu người cha, chan hoà nước mắt người mẹ. Ðối với Quốc, đó là vòm trời thương nhớ, khoảng rừng đau thương, cộng lại hình thành một thứ sâu nặng nó mang theo đến cuối đời mình.
Còn Phan Trung Nghĩa, tuy quê ở Bạc Liêu nhưng thời trai trẻ hắn làm phóng viên Báo Minh Hải nên đã vác bút về rừng U Minh nổi tiếng nhiều lần trong những sự kiện lớn như rừng cháy năm 1984, thiêu rụi hàng ngàn héc-ta rừng nguyên sinh. Hắn theo chân đoàn quân “đi lợp màu xanh U Minh bất khuất” hồi thập niên 80 của thế kỷ trước. Bằng linh cảm của một nhà văn, nhà báo, hắn nhận ra U Minh không chỉ là một trong hai cánh rừng quý hiếm của thế giới ở Cà Mau; U Minh không chỉ là nơi rừng sâu nước độc, dồi dào sản vật... mà đó còn là một thứ gì đó rất thiêng liêng, nuôi nấng, ấp ủ tâm hồn, khí phách người đi mở cõi.
Phan Trung Nghĩa huyên thuyên khi cả bốn chúng tôi ngồi trên xe rằng, hơn 300 năm trước, trong cuộc hành trình về phương Nam tìm đất mới, mở rộng chiều dài đất nước, những người tha phương cầu thực đã nhận ra lợi thế của rừng U Minh. Từ đó, U Minh là một trong những địa chỉ dừng chân lập nghiệp sớm nhất của Cà Mau. Những chòi lá cột cặm cây rừng tràm lần hồi quần tụ thành xóm làng. Từ đây, người khẩn hoang, dựa vào rừng thiết lập nên một đời sống ổn định với những nghề rất lam lũ mà sáng tạo như: bứt choại, ăn ong, đặt trúm, hầm than… góp phần phát triển Cà Mau - miền đất cuối trời cực Nam Tổ quốc.
Khi người Pháp đô hộ nước ta, sự đặc biệt của rừng U Minh đã thu hút họ. Người Pháp đã sớm nhận ra tiềm năng, lợi thế của rừng U Minh nên đã quy hoạch, đầu tư một khoản tiền rất lớn để làm nên một hệ thống giao thông thuỷ lợi dày đặc ở xứ này. Cứ cách một ngàn mét, họ cho đào một con kênh mà sau này dân cư khẩn hoang người Việt đặt tên và trở thành tên xóm làng của U Minh như: Cơi 1, Cơi 5... Chính hệ thống giao thông thuỷ lợi này có tác dụng xổ phèn, giao thông đã nhanh chóng thu hút tư bản Pháp nhảy vào mở đồn điền và nó cũng nhanh chóng đưa cư dân khẩn hoang xâm nhập khai thác rừng U Minh. Từ đó U Minh trở nên nổi tiếng với than tràm, sáp ong, cá đồng và những đặc sản khác như rùa, lươn, than bùn...
Khi đế quốc Mỹ xâm lược nước ta, họ cũng xem U Minh là một trong những vùng đất cần phải bình định, chiếm giữ. Họ đã cho xây dựng nhiều đồn bót và rải hoá chất độc gọi là “nhổ cỏ U Minh”... Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, chính quyền Ngô Ðình Diệm bắt đầu đưa quân đóng lại các đồn bót rồi đưa máy chém khắp nơi ở bán đảo Cà Mau và Nam Bộ để đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng, bắt bớ, bắn giết dã man cán bộ cách mạng và truy bức cả gia đình của họ.
Trước tình hình đó, Tỉnh uỷ Cà Mau kiến nghị phải xây dựng căn cứ địa ở rừng U Minh để tạo chỗ đứng chân cho các cơ quan lãnh đạo và bộ đội tập trung đồng bào bất hợp pháp với giặc, đồng thời có nơi bảo tồn cán bộ, đảng viên bị lộ, bị truy lùng khủng bố lẩn tránh. Từ đó, Xứ uỷ Nam Bộ đồng ý cho xây dựng làng rừng ở rừng đước Cà Mau và rừng tràm U Minh. Sự đồng ý này không phải chỉ căn cứ vào địa hình rừng rậm mà Ðảng ta còn nhận ra tấm lòng son của người Cà Mau.
Anh Ba Minh ở Lung Tràm, ấp Ðường Ranh (huyện Trần Văn Thời), hăng hái, an tâm trên mặt trận mới (3/1971). Ảnh tư liệu
Xã Khánh Bình Ðông, Khánh Bình Tây, nơi chúng tôi đến xưa gọi là Làng rừng Mười Tế, một trong những làng rừng đầu tiên và có quy mô lớn nhất, với sức chứa lên đến hàng ngàn người. Người ta làm nhà, đường đi dưới tán rừng, không chỉ đặt các cơ quan cách mạng mà dân cũng vào ở rồi tổ chức làm ăn, dưới sự che chở của rừng, của lòng dân U Minh, mà 15 làng rừng được xây dựng với hàng chục ngàn người vào ở, làm ăn, chiến đấu giành độc lập dân tộc. Trong làng rừng còn có cơ sở y tế và trường học. Mỹ - nguỵ lập ra các khu dinh điền, khu trù mật, ấp chiến lược để gom dân, tách dân ra khỏi Ðảng thì Ðảng bộ và Nhân dân Cà Mau đã sáng tạo ra làng rừng, thể hiện sự gắn bó máu thịt giữa Ðảng Cộng sản và người Cà Mau. Nếu U Minh là linh hồn đó của Cà Mau, thì Khánh Bình Ðông, Khánh Bình Tây, nơi chúng tôi đến là linh hồn của U Minh. Gọi U Minh là đất thiêng của cách mạng là như thế.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cha tôi hy sinh, mẹ bận công tác thành, tôi được tổ chức nuôi dưỡng, dạy dỗ và Nhân dân ở đất này đùm bọc. Một điều may mắn của đời tôi là được gắn bó với Tiểu ban Văn nghệ (thuộc Ban Tuyên huấn Khu uỷ Tây Nam Bộ), được gần gũi, dạy dỗ của những văn nghệ sĩ tài danh như Nhà thơ Nguyễn Bá (Trường ca và Tiểu thuyết Hòn Khoai), Nhà báo - Nhà văn hùng biện Phong Triều, Nhạc sĩ Phan Thao, Hoàng Bửu, người đứng đầu cơ quan nhân hậu Nguyễn Văn Vàng - Sáu Nghệ...
Quân trang, một đơn vị thuộc Cục Hậu cần Quân khu 9, gồm 29 nữ, do chị Tư Bích chỉ huy. Ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, đơn vị còn tự lực trong đời sống, đảm đang cả những công việc nặng nhọc. (Ảnh chụp tại Rạch Nai, Cái Tàu, 27/10/1970). Ảnh tư liệu
Tôi đã sống cùng với cuộc kháng chiến đầy gian khổ hy sinh tại rừng U Minh này. Tấm lòng của người U Minh, sản vật của rừng đã nuôi nấng, ấp ủ cho tôi. Hôm nay tôi trở lại là cố tìm về ba gia đình người U Minh gắn bó, giúp đỡ tôi và căn cứ Tiểu ban Văn nghệ.
Tôi chỉ nhớ loáng thoáng ngôi nhà của hơn 50 năm trước, vậy mà thật may, xe ghé đúng bon, nhưng nó nằm bên kia sông, xe ô tô không thể qua được. Tôi bụm tay làm loa gọi sang.
Cô gái chủ nhà luống cuống lấy xe chạy qua rước tôi. Dọc đường tôi cho biết, trước từng đóng cơ quan ở trong đê U Minh cách đây chừng 500 m, thường ra đây nhờ sự giúp đỡ của gia đình và cô bác Cơi 5 này. Người phụ nữ rước tôi cho biết, cô chưa đầy 40 tuổi, tức lúc tôi từ giã xứ này hơn 10 năm cô mới ra đời. Tôi kêu ba má em là cậu mợ Mười. Hồi đó nhà cậu mợ Mười như trạm dừng chân của bộ đội, cán bộ từ miệt Năm Căn, Ðầm Dơi, Cái Nước... Trên đường công tác lên chiến trường trọng điểm Cần Thơ thường ghé nghỉ chân cơm nước, hay những gia đình lên ven rừng này thăm thân nhân các cơ quan trong khu vực cũng ghé đây, vì do bí mật không vào được trong cứ. Nhà ông bà sống nghề làm ruộng, giặc giã cấy hái bấp bênh nên thiếu trước hụt sau, nhưng bất cứ cán bộ, bộ đội dù lạ hay quen, dù ngày hay đêm, cả nhà đều niềm nở thu xếp nơi ăn nghỉ, rồi cơm nước, có gì ăn nấy. Chưa nói gạo, việc phải đi xa lấy nước ngọt, vào ven rừng chặt chà tràm làm củi cũng lắm nhọc nhằn. Mẹ tôi mấy lần công tác tranh thủ ghé thăm tôi cũng ở nhà cậu mợ. Khi từ giã, mẹ tôi dúi vào tay mợ ít tiền gọi là tiếp một phần tiền gạo thì cậu mợ giận dỗi, cằn nhằn và quyết liệt từ chối. Ra thăm mộ cậu mợ rồi vào nhà dâng phẩm vật lên bàn thờ. Tôi thắp nén nhang khấn cậu mợ mà ngậm ngùi, vì ông bà đã đi xa... để lại trong tôi một tình sâu nghĩa nặng.
Nhà thứ hai chúng tôi tới thăm là nhà ông Mười Ða, cũng nằm xóm này, nhưng gia đình đã dời đi xa cả 7-8 cây số. Ông bà đều là thương binh, năm 1973 về quê làm ruộng, nhưng ít đất nên phải làm nghề lưới câu, lờ, lọp ven rừng kiếm sống. Ông bà đôn hậu, thương con cháu, nhất là lũ nhỏ trong cơ quan tôi đóng giáp ranh đất ông. Nghèo do ít đất và làm lụng không bằng ai, do thương tật sau những năm chiến đấu. Vậy mà hễ cắm câu được cá lóc bự, không bán, mà mần nấu cháo dừa rủ tụi nhỏ chúng tôi qua ăn. Ông hay tặc lưỡi: "Mấy đứa nhỏ quá mà sớm thoát ly, giống chú Mười hồi đó quá. Tụi bây sức ăn sức lớn chắc mau đói lắm. Chú giấu chuối trên bờ ranh, do bị thương xách vô không nổi, lâu lâu đem xuồng ra chở cho lối xóm. Chuối chín nhiều lắm, tụi con ra đó ăn no rồi về". Có lần thấy tóc tôi phủ lỗ tai, ông nói nhà chú có cây kéo, hổng ấy chú cháu mình hớt vần công đi. Tôi nói, con không biết hớt, thì ông nói hớt vài lần rồi biết chớ gì. Vậy là chú cháu tôi thay phiên hớt cho nhau, tóc cũng cao ráo nhưng sọc rằn như cá bổi. Xong xuôi ông chọc tôi đừng đi gần bờ đìa coi chừng cá lóc tưởng mồi nó táp... Hễ tôi bị cảm là ông đè cạo gió, rồi nấu nước cho xông...
Hôm nay tôi về thăm nhà ông Mười mà như thấy lại cơ quan cũ bên cạnh mái lá nghèo của vợ chồng người thương binh. Tôi dâng quà mọn rồi thầm khấn ông và chỉ biết nói về những ân tình của vợ chồng ông hồi 50 năm trước... Mắt tôi cay khi lên xe từ giã một tấc lòng của người U Minh.
Rời nhà ông Mười, xe chúng tôi đi trên đê Quốc phòng biển Tây Nam Mũi Cà Mau. Tôi và Nhà văn Phan Trung Nghĩa có cùng một cảm thức. Một con đường đẹp đẽ đến tuyệt vời, nằm trấn giữa, giới hạn biển và lục địa. Một bên là rừng U Minh xưa giờ thay đổi đến không nhận ra sau 50 năm giải phóng đất nước. Cà Mau đã thực hiện giao đất giao rừng phù hợp với mục tiêu của cách mạng dân tộc dân chủ là người cày có ruộng. Theo đó, đa số người U Minh có ruộng, có rừng thành khoảnh với những mô hình làm ăn bền vững. Quan sát chúng tôi thấy phổ biến là nhà tường, phía trước cùng sân vườn kiểng, phía sau vườn rau, ao cá, ruộng lúa và đất rừng tràm.
Phía biển thì nắng trải bạc xôn xao trên ngọn sóng. Ở đó thấp thoáng hòn Ðá Bạc, Hòn Khoai như cảnh tiên. Trên biển nhấp nhô những chiếc tàu đánh cá hiện đại. Xe chúng tôi đến cửa Sông Ðốc thì cả ba đứa đều sững sờ trước sự sầm uất, mở rộng của thị trấn biển và chúng tôi nhận ra Trần Văn Thời đang vươn lên, làm ăn lớn. Tôi ngẫm nghĩ, 50 năm đúng là vật đổi sao dời, không còn nhận ra được nữa.
Nhà cuối cùng chúng tôi ghé là ngôi nhà của Ðỗ Kiến Quốc, chủ hộ là má Tư. Gia cảnh khá neo đơn: Quốc thì rời gia đình đi học tập, công tác từ nhỏ, em gái thì lấy chồng xa, thằng út ở với dì thì vợ bị tai nạn chết. Hiện tại nó cũng có nhân tình nên đi sớm về muộn, ở nhà chỉ còn má Tư thường xuyên tới lui một mình như cái bóng. Nhiều lần Quốc rước má ra Cà Mau ở, nhưng dăm ba ngày thì bà nằng nặc đòi về. Bà bảo, già rồi không thể xa nhà, bỏ quê, càng muốn sống với vòm trời riêng của đời mình.
Ðỗ Kiến Quốc nhìn mẹ mình bằng đôi mắt ưu tư, tôi cũng xúc động sau nhiều năm gặp lại. Còn Phan Trung Nghĩa nói: “Em gặp dì Tư cách đây hơn 40 năm, trong lần Quốc dẫn về thăm nhà, trong chuyến công tác ở Trần Văn Thời. Bây giờ dì Tư già quá. Cũng phải thôi, đã ngoài 80 tuổi rồi mà”.
Má Tư thường xuyên sống một mình, bà lấy công việc gia đình làm lẽ sống. Nhà má là ngôi nhà tường cũng tương đối khang trang, trước thì trồng kiểng, chủ yếu là mai vàng, xung quanh nhà thì rau trái, sau nữa là ao đìa nuôi cá và những liếp chuối xiêm. Cuối hậu đất là mấy công ruộng và một vạt tràm. Vườn nhà rất sạch sẽ, tinh tươm, chứng tỏ chủ nhà là một người kỹ tính, hay làm và quần quật tối ngày. Cái nếp sống đó bà đã quen từ thời con gái. Gia cảnh nghèo, lấy chồng được ba đứa con thì chồng hy sinh. Vậy là dì không tái giá, một thân một mình nuôi ba đứa con khôn lớn, nuôi thằng Quốc thành tài. Bây giờ làm vườn để lâu lâu gửi ít quà quê cho con cháu... Câu chuyện của má Tư là một câu chuyện giản dị, ẩn chứa nhiều niềm đau. Ðó là một câu chuyện thường thấy ở đất U Minh, cho nên phẩm hạnh của má là phẩm hạnh của người phụ nữ U Minh. Nó hội đủ những thứ cần có của phẩm hạnh người phụ nữ Việt Nam.
Tôi và Phan Trung Nghĩa ra phía sau nhà. Ngôi nhà tường má còn giữ được cái bếp thời xa xưa. Và hai chúng tôi sững sờ khi bắt gặp giàn bếp quê hương đặc trưng của bán đảo Cà Mau và miền Tây Nam Bộ được lưu giữ và nấu nướng hằng ngày. Bếp được thiết kế bằng gỗ tràm, có bốn chân, dưới chân bếp thì chất củi, trên bếp có ba ông lò truyền thống nấu bằng củi. Không gian trên nóc bếp dì Tư làm cái gác tạm bợ để chất lá dừa mà nhóm lửa, gần đó có đóng cái kệ đặt lủ khủ gia vị và có cả buồng chuối chín.
Nhà văn Phan Trung Nghĩa đứng nhìn xúc động như bắt gặp một không gian cũ, một khoảng thời ký ức của mình, rồi bảo: “Anh chụp giùm em mấy tấm ảnh”.
Tôi đến gần bếp chụp ảnh và phát hiện dưới lớp tro tàn vẫn còn mấy hòn than âm ỉ cháy. Tôi chợt nghĩ, đó là ngọn lửa của lòng người U Minh ngàn năm vẫn cháy, với khát vọng vươn tới ấm no, hạnh phúc.
Tôi từ giã U Minh khi mùa xuân Ất Tỵ đang về. Én đã chấp chới trên ngọn tràm. Lòng tôi xốn xang, tôi hứa sẽ trở lại vùng rừng nhiều kỷ niệm của mình, về lại với căn cứ U Minh bất khuất và tôi chợt nghe văng vẳng bốn câu thơ của Nhà thơ Nguyễn Bá - Một người cũng thật nhiều kỷ niệm với U Minh.
...Nơi con sông mùa sa mưa nước đỏ
Nơi chân trời mát mẻ bóng tràm xanh
Nơi quê hương bao người thương đang ở
Chiếc lá rơi cũng xao động tâm tình...
(Trở lại U Minh - Thơ Nguyễn Bá)
Bút ký của Nguyễn Bé - Ngân Phương