ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 22-4-25 02:15:09
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975-30/4/2025)

Về nơi con tàu đầu tiên cập bến

Báo Cà Mau Những ngày tháng Tư lịch sử này, giữa niềm vui chung hướng tới kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, lòng người dân Rạch Gốc - Tân Ân lại rộn ràng hơn, bởi cái tin bến Vàm Lũng chuẩn bị đón nhận bằng Di tích Quốc gia đặc biệt. Với họ, những con người của vùng đất đã góp phần cùng Phan Ngọc Hiển làm nên Khởi nghĩa Hòn Khoai lịch sử năm 1940 này, ký ức một thời từng gắn bó ruột rà, máu thịt với Ðoàn 962 như sống dậy, đằm thắm yêu thương, chen lẫn tự hào.

Trong căn nhà đơn sơ tại ấp Rạch Gốc, xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, bà Phan Thị Lợi (Út Lợi) đón chúng tôi với ánh mắt lấp lánh niềm vui và nụ cười hiền, ấm áp. Bà bảo, tuần trước có người của truyền hình quân đội về quay phim, nhờ bà tái hiện cảnh cất nước ngọt. Mặc dù dụng cụ, khung cảnh không hoàn toàn giống như xưa, nhưng bà cũng nhiệt tình thực hiện; để thế hệ sau này có thể hình dung lại phần nào những vất vả, khó khăn của thời bom đạn.

Rồi bà kể, hồi ấy cứ phải tản cư hết chỗ này đến chỗ khác, đâu chở được lu, mái theo trữ nước mưa. Sông Năm Căn cũng bị giặc chia cắt không thể đi qua đất liền chở nước ngọt, người dân xứ rừng đước này nghĩ ra chuyện cất nước mặn thành nước ngọt sử dụng hằng ngày.

Bà Phan Thị Lợi nâng niu từng kỷ vật một thời gắn bó với Ðoàn 962.

Bà Phan Thị Lợi nâng niu từng kỷ vật một thời gắn bó với Ðoàn 962.

Mặc dù phải hứng từng giọt nước cất, nhưng lúc nào nhà bà cũng để dành những phần nước cho bộ đội về dùng. Mẹ bà là Nguyễn Thị Hoài, được bộ đội gọi thân thương là má Bảy. Hồi “Luật 10/59”, nhà bà đã là cơ sở cách mạng. Sau đó bị lộ, anh thứ Năm của bà là Lâm Văn Bùi (23 tuổi), bị giặc bắt và thủ tiêu. Từ đó lòng căm thù càng dâng cao ngút.

“Má tôi nuôi bộ đội dữ lắm, hết tốp này tới tốp khác. Mấy anh Ðoàn 962 thì ở nhà má tôi từ khi mới về khảo sát thành lập bến, tới mãi sau này. Má tôi thương anh em 962 như con ruột vậy. Hễ mấy anh về là má nhắc nấu cơm cho ăn, nấu nước cho uống trà... Có đêm mấy anh về, trong nhà chỉ còn một lon gạo, má cũng kêu nấu cho các anh ăn, mai rồi tính tiếp. Có những thời điểm không mua được gạo, phải luộc trái mắm 7-8 nước chia nhau ăn cho đỡ dạ...”, ký ức thời gian khó ngày nào vẫn ngọt ngào, đằm sâu trong lòng bà Út Lợi.

Không chỉ giúp bộ đội, nhà bà còn nuôi vợ, con họ. Rất nhiều gia đình vợ con cán bộ, chiến sĩ Ðoàn 962 được nhà bà cưu mang, đùm bọc mà không hề đắn đo, so tính.

Bản thân bà từ nhỏ đã giúp mẹ, lớn lên càng vén khéo, giỏi giang nên tiếp mẹ giúp bộ đội được nhiều hơn. Nghe kể, hồi ấy bà đẹp người, đẹp nết, được cán bộ, chiến sĩ Ðoàn 962 gọi là “hoa hậu rừng đước”. Nhiều người hỏi hôn, nhiều người thầm thương trộm nhớ, nhưng bà bảo không muốn mất lòng ai, cứ coi họ như anh ruột, giữ tinh thần cho họ đi chiến đấu. Chỉ mong nước nhà mau thống nhất là mừng rồi.

Ngày đất nước độc lập, bà mới tuổi 26, nhưng ở vậy làm lụng lo cho mẹ già và tham gia công tác tại địa phương. Khi má Bảy qua đời, bà cũng không chịu chọn cho mình bến đỗ. Giờ đây, tuổi ngấp nghé 80, nhưng trên khuôn mặt bà, nét đẹp mặn mà thời tuổi trẻ vẫn còn hiển hiện.

Cho tới bây giờ, bà vẫn còn giữ gìn, nâng niu nhiều kỷ vật của thời thanh xuân đẹp đẽ cách nay hơn nửa thế kỷ ấy. Ðó là tấm vải dù, cái khăn rằn, những bức thư, chiếc lá U Minh, cánh hoa khô... bà được tặng; là bàn máy may bà mua may hàng trăm chiếc nón tay bèo, nhiều bộ đồ lục quân và sửa, vá không biết bao nhiêu quần áo cho cán bộ, chiến sĩ Ðoàn 962. Thậm chí, giờ đây bà vẫn còn thuộc lòng số đo của nhiều người.

Hôm chúng tôi ghé, bà còn mang ra bộ dĩa ly thuỷ tinh thương hiệu Pháp và bảo: “Ðây là bộ ly hồi đó anh Sáu Toàn, Tư Ðức, Hai Măng... thường uống trà. Tôi giữ tới bây giờ làm kỷ niệm. Mỗi lần nhìn nó, ký ức một thời đầy ấm áp, yêu thương lại hiện về”.

Ông Sáu Toàn mà bà trìu mến nhắc đến là ông Chung Thành Châu, một trong những người tham gia mở bến Cà Mau.

Ðầu năm 1962, ông Chung Thành Châu, bấy giờ là Thường vụ Tỉnh uỷ, Trưởng ban Dân vận - Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Cà Mau, được Khu uỷ Tây Nam Bộ điều về làm Chính uỷ đơn vị HN 75 (tiền thân Ðoàn 962) để khảo sát, xây dựng bến Cà Mau. Ðịa bàn từ cửa Bồ Ðề đến Vàm Lũng, Tân Ân dài hơn 60 km, được chọn làm nơi tiếp nhận vũ khí vì có nhiều cửa biển thuận lợi. Nhưng nơi đây có đến hơn 800 hộ dân, việc di dời dân là thách thức lớn. Trung ương giao 9 tháng, chưa đầy 3 tháng ông đã hoàn thành. Tài thuyết phục, uy tín và lòng dân đã làm nên kỳ tích.

Tượng đài Di tích lịch sử Quốc gia bến Vàm Lũng tại Khóm 8, thị trấn Rạch Gốc, huyện Ngọc Hiển.

Ngày 19/9/1962, Ðoàn 962 thành lập, ông được bổ nhiệm làm Ðoàn phó, kiêm Chính uỷ bến Cà Mau (Vàm Lũng, Kiến Vàng là bến chính).

Ngay sau bến Cà Mau được mở, ngày 16/10/1962, con tàu Phương Ðông 1, do Thuyền trưởng Lê Văn Một và Chính trị viên Bông Văn Dĩa điều khiển, chuyển 30 tấn vũ khí từ miền Bắc vào cập bến Vàm Lũng an toàn. Ðó là chuyến tàu đầu tiên trong tuyến đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển.

Không chỉ tiên phong mở bến, ông Sáu Toàn còn được nhắc đến với nhiều thành tích về bảo vệ bến bãi, kho tàng, điều phối vận chuyển hàng ra khắp chiến trường Tây Nam Bộ. Ðại tá Khưu Ngọc Bảy, nguyên Ðoàn trưởng Ðoàn 962, kể, khi con tàu 69 bị địch phát hiện, bắn xối xả trúng hơn 100 vết đạn, bất chấp nguy hiểm, ông Sáu Toàn có mặt ngay tại trận địa, chỉ huy ứng cứu và đẩy lùi được giặc, đưa tàu vào bãi nguỵ trang cất giấu an toàn.

Năm 1968, trong chiến dịch Mậu Thân, ông được Quân khu điều làm Phó ban Chỉ huy thống nhất Mặt trận phía Nam Cà Mau. Ông đã hy sinh trong đợt 2 tiến quân vào thị xã Cà Mau. Năm 2011, ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND).

Bà Út Lợi nghẹn ngào: “Ðầu năm 1968, anh Sáu Toàn về cùng một người. Anh uống trà rồi nói: “Con về từ giã má và Út Lợi, con đi chuyến này chắc hơi lâu mới về. Má với Út ở nhà nhớ giữ gìn sức khoẻ...”. Vậy rồi sau đó không lâu, được tin anh hy sinh...”.

Hôm ấy, chúng tôi đến thăm Nhà Tưởng niệm Anh hùng LLVTND Bông Văn Dĩa. Xem qua tư liệu, càng biết thêm sự vĩ đại của người con vùng đất Rạch Gốc - Tân Ân này. Ông từng được Phan Ngọc Hiển dẫn dắt làm cách mạng và tham gia khởi nghĩa Hòn Khoai, từng ngồi tù Côn Ðảo, từng mở đường vận chuyển vũ khí từ Thái Lan qua Campuchia về miền Tây Nam Bộ thời kháng chiến chống Pháp - trước khi là Chính trị viên tàu Phương Ðông 1, mở tuyến đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển.

Anh Tăng Quốc Ðoàn, cháu ngoại và là người thờ cúng Anh hùng Bông Văn Dĩa, kể, ông ngoại anh hồi hoàn thành việc mở đường vận chuyển vũ khí, được vinh danh, được tặng cây súng, cái cặp, cái đồng hồ - có khắc tên trên hiện vật. Ðặc biệt, Nhà thơ Tố Hữu tặng ông cây viết (cũng có khắc tên) với ngụ ý để ông viết tiếp những chiến công.

Trở lại câu chuyện tấm lòng dân, ông Dương Thanh Hải, nguyên cán bộ Ðoàn 962 (ngụ Khóm 8, thị trấn Rạch Gốc), bảo, không chỉ có bà Út Lợi, má Bảy, cả xứ Rạch Gốc - Tân Ân này đều là “bến cảng giữa lòng dân”. Biết bao nhiêu kho tàng, bến bãi trong khu vực này chứa hàng ngàn tấn vũ khí, người dân biết hết nhưng không hề lộ bí mật. Nhiều gia đình không chỉ giúp mà còn cho con tham gia Ðoàn 962. Như bà má Hai (Nguyễn Thị Thắm) có đến 2 con trai, 1 con rể tham gia 962, 1 con rể là Anh hùng Nguyễn Văn Cứng, Thuyền trưởng Tàu 42 (Ðoàn 125 - Ðoàn tàu “không số”).

Anh Nguyễn Hoàng Nam, con trai Anh hùng LLVTND Nguyễn Văn Cứng (khóm Rạch Gốc B, thị trấn Rạch Gốc) bộc bạch, sinh thời bà ngoại anh không kể nhiều về công trạng mình, với bà, chỉ cần nước nhà thống nhất là đủ mãn nguyện.

Người dân Rạch Gốc - Tân Ân là thế, âm thầm giúp đỡ cách mạng, không so tính thiệt hơn, xem như công việc của mình.

Giờ đây, khi nghe tin bến Vàm Lũng được công nhận Di tích Quốc gia đặc biệt, bà con ai cũng vui mừng. Bà Út Lợi nói thêm nghe thật triết lý: “Vui thì phải tiếp tục phát huy truyền thống xây dựng quê hương. Làm không được thì hỗ trợ, góp ý giúp thế hệ sau. Hồi đó mình chèo ào ào, giờ lớn tuổi rồi thì gác tay, chứ đừng bỏ tay rà nước...”.

Bến Vàm Lũng vẫn ngày đêm ì ầm sóng vỗ. Lẫn trong ấy dường như có cả lời thầm thì của lịch sử, kể về những người mở bến, giữ bến, bảo vệ các chuyến tàu bằng cả sinh mạng mình. Ở đó, còn có những giọt nước ngọt nghĩa tình, những chén cơm sẻ chia ngày túng khó, vị mặn bùi của trái mắm cầm hơi... Ở đó, có lòng dân bền chặt xây nên những bến cảng tình người - bến cảng giữa lòng dân.

Chợt nhớ mấy câu thơ nhiều gửi gắm của Ðại tá Khưu Ngọc Bảy, người với mảnh đất này một thời đậm sâu, gắn bó:

"Những tháng năm chẳng ai sống riêng mình

Từng số phận gắn liền cùng Tổ quốc

Ta sống hôm nay có phần người đã khuất

Ðất nói với ta đây một chân lý vĩnh hằng”.


Ngoài là cụm bến được mở đầu tiên, đón chuyến tàu đầu tiên của con đường huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển, Cà Mau cũng là cụm bến có số lượng tàu và hàng (vũ khí) vào nhiều nhất (so với các bến) với 76 chuyến, 4.294 tấn vũ khí; trong đó, riêng bến Vàm Lũng - Kiến Vàng đón 68 chuyến.

Ðại tá Phạm Văn Hết, nguyên Ðoàn phó Ðoàn 962, Trưởng ban Liên lạc Ðoàn 962, nhẩm tính: Ðoàn 962 có 8 Anh hùng LLVTND, trong đó, riêng cụm bến Cà Mau có đến 4, bao gồm các anh hùng: Bông Văn Dĩa, Phan Văn Nhờ (Tư Mau), Chung Thành Châu (Sáu Toàn), Ngô Văn Tân. Bên cạnh đó, ở Ðoàn 125 còn có Anh hùng LLVTND Nguyễn Văn Cứng quê cũng ở Cà Mau. Ðây là điều hết sức tự hào. Nhưng ông cũng bùi ngùi: Ðoàn 962 có đến khoảng 600 liệt sĩ, riêng cụm bến Cà Mau khoảng 200. Cái giá cho hoà bình là thật lớn.

Nghe tin Cà Mau được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt vào ngày 26/11/2024 và chuẩn bị đón danh hiệu này tại Vàm Lũng, Ðại tá Ngô Trường Hận, nguyên trợ lý tác huấn Ðoàn 962, Trưởng ban Liên lạc Ðoàn 962 cụm bến Cà Mau, bày tỏ: “Bản thân là từng công tác, chiến đấu ở Ðoàn 962 anh hùng, tôi cũng như đồng đội rất danh dự, tự hào. Ðây là thành tích quá xứng đáng với bao công sức, máu xương của chiến sĩ và đồng bào nơi đây đã cống hiến”.


 

Huyền Anh

 

Trang sử Cà Mau thời kháng chiến năm 1973

Sau Hiệp định Paris năm 1973, về mặt đấu tranh công khai, Ban Liên hợp quân sự 4 bên khu vực 4 (Quân khu 9), do đồng chí Hoàng Hà làm Trưởng ban, đồng chí Phạm Văn Liêm làm Phó ban, Tổ liên hợp Cà Mau do đồng chí Tống Kỳ Hiệp và đồng chí Trịnh Thành Kế phụ trách đã đấu tranh chống lại sự vi phạm Hiệp định của địch trong khu vực. Ta buộc địch công nhận vùng tự do của ta ở Cà Mau và đã thực hiện việc trao trả tù binh ở Kinh Ba, xã Quách Phẩm, huyện Ngọc Hiển (Tư Kháng), Ðầm Dơi ngày nay.

Về “Đất thép thành đồng”

Thiết thực các hoạt động chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025), kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3/1931-26/3/2025), ngày 30/3, đồng chí Nguyễn Hồ Hải, Bí thư Tỉnh uỷ, cùng đoàn cán bộ Tỉnh đoàn đã có chuyến hành trình giáo dục truyền thống, về nguồn tại "Ðất thép thành đồng": Củ Chi - TP Hồ Chí Minh.

“Chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú - Dấu xưa một thời

Trong hành trình tìm về quá khứ, có những việc tuy ngoài sách sử, nhưng lại đậm sâu trong ký ức nhiều người. Ðó cũng là câu chuyện về “chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú, nay thuộc ấp Sở Tại, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước.

Những ngày tháng Ba của mùa Xuân đại thắng

Nửa thế kỷ đã qua kể từ mùa Xuân đại thắng 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bắc - Nam sum họp một nhà, đất nước thống nhất, kết thúc thắng lợi vẻ vang cuộc kháng chiến của dân tộc chống lại đế quốc sừng sỏ và bè lũ tay sai. Tháng 3/1975 là “đêm trước” của ngưỡng cửa chiến thắng. Cục diện chiến trường chuyển biến mau lẹ; không khí cách mạng dâng cao sục sôi; cùng với đó là sự lãnh đạo, chỉ đạo bằng tất cả ý chí, niềm tin, sức mạnh của Đảng ta, để toàn dân tộc cùng nhau kề vai chung sức, chớp lấy thời cơ, làm nên một chiến thắng vang dội, hào hùng, bất tử.

Thân thương hai tiếng Cà Mau

Cà Mau không chỉ là điểm cuối của đất nước, nơi ai cũng mong một lần được ghi dấu bước chân mình tại cột mốc toạ độ, mà còn là vùng đất để lại trong tim nhiều người những tình cảm khó quên.

Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng - Lịch sử không thể lãng quên

Tôi đồng tình với ông Sáu Sơn (ông Ðỗ Văn Nghiệp, tác giả chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh “Ðiều tra, sưu tầm chứng tích tội ác Mỹ - Nguỵ tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng” cách đây 20 năm), rằng: “Khép lại quá khứ, không có nghĩa là lãng quên quá khứ. Bài học đúc kết từ quá khứ là bài học bằng xương máu, sẽ có nhiều bổ ích cho hiện tại và tương lai”.

Bến Dựa một lần về

Bến Dựa chỉ là một đoạn sông ngắn, hằng ngày cần mẫn làm người trung chuyển đưa nước lớn về ngã ba Cái Đuốc, ngọn Cái Ngay; tiễn nước ròng ra Cái Nháp, đổ ra ngã ba Tam Giang, xuôi về biển cả. Khu rừng bên bờ Đông Bến Dựa nơi cơ quan Huyện uỷ Tư Kháng (Đầm Dơi ngày nay), làng rừng Huỳnh Ngọc Điệp tồn tại.

Chiều Sài Gòn

Tựa bài viết “Chiều Sài Gòn” nghe như chơi vơi, rất xưa, bởi Sài Gòn - Gia Ðịnh đã có hơn 300 năm tuổi, thì đồng nghĩa cũng có hơn một triệu buổi chiều. Nhưng “Chiều Sài Gòn” tôi viết đây chỉ là chiều 30/4/1975, buổi chiều đầu tiên “Sài Gòn ơi ta đã về đây” như lời bài hát một thời có sức hút mạnh mẽ.

Huyền thoại biệt động thành Cà Mau

Thị xã Cà Mau những năm cuối thập niên 1950, dưới chế độ Mỹ - Diệm, không khí ngột ngạt bởi những cuộc càn quét, bắt bớ. Đám cảnh sát mật vụ, lính bảo an lùng sục khắp nơi, ráo riết truy lùng những người kháng chiến cũ, những người mà chúng nghi là "Việt cộng nằm vùng".

Thăm địa chỉ đỏ

Di tích Hồng Anh Thư Quán (số 43, đường Phạm Văn Ký, Phường 2, TP Cà Mau) là một trong những di tích lịch sử hiếm hoi ghi dấu chặng đường cách mạng của người Cà Mau trước năm 1930. Hồng Anh Thư Quán được công nhận Di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia ngày 4/8/1992.