ĐT: 0939.923988
Thứ tư, 4-6-25 16:44:20
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Về Xẻo Ðước nhớ các anh

Báo Cà Mau (CMO) Mỗi lần về lại Di tích Căn cứ Tỉnh uỷ tại Xẻo Ðước, tôi như được sống lại cảm giác ngày xưa, những ngày công tác tại Văn phòng Tỉnh uỷ trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Tham gia công tác Văn phòng Tỉnh uỷ thời ấy, chúng tôi như những hạt cát rất nhỏ. Nhưng đối với những người đã hy sinh, thì hạt cát đó lại là máu xương của họ.

Tượng đài Căn cứ Tỉnh uỷ tại Xẻo Ðước.

1. Người đầu tiên tôi muốn nhắc đến là anh Phạm Quang Long (Tư Vui), liệt sĩ đầu tiên của Văn phòng Tỉnh uỷ, là cán bộ mã thám, tai mắt không thể thiếu lúc bấy giờ. Trong chiến dịch đánh vào căn cứ của ta, được nguỵ trang tìm diệt giáo phái Bình Xuyên, ngày 25/8/1961, anh Quang Long đã hứng một loạt đạn trọng liên trên chiếc máy bay “cồng cộc” sát hông nhà chú Hai Hiền ở Rẫy Mới, cặp sông Mỹ Bình.

Lập gia đình đã mấy năm nhưng anh chưa có một mụn con. Trước đó mấy hôm, anh nhắn về chị Huỳnh Thị Mười (Tư Ðào), vợ anh (nhà cách khu căn cứ chừng vài trăm mét), rằm tháng Bảy nấu chè, anh sẽ về ăn. Nhưng chiều 14/7 anh đã hy sinh.

Tôi được lãnh đạo phân công từ Rẫy Mới về Xẻo Ðước đón chị Tư Ðào. Ðêm trăng lúc mờ lúc tỏ, có lẽ những cụm mây trong cơn mưa chiều chưa tan. Hai chị em hì hục đi, gặp sông nhờ xuồng, có lúc chị quỵ xuống nức nở, tôi đỡ chị lên rồi đi tiếp. Ðêm, mùi thuốc súng như chưa tan, dọc đường có nhà còn chong đèn leo lét, tiếng chó tru xa xa rất thảm.

Tôi không biết có cơ duyên nào, từ A trưởng đơn vị địa phương quân Cái Nước, với khẩu súng trường tự động Mỹ, rất hợp với sức vóc vạm vỡ và cái miệng rất duyên của anh, anh lại trở thành cán bộ mã thám đầu tiên của Văn phòng Tỉnh uỷ. Một đồng đội mãi mãi nằm xuống, một mối tình son tan vỡ.

2. Ðoàn Nghĩa Hiệp (Năm Nhựt), cũng là cán bộ mã thám, bộ ba với Phạm Thạnh Trị (Bảy Trị) và Tô Minh Thứa (Ba Ðức). Trong lần đi phục vụ Hội nghị An ninh mở rộng do Tỉnh uỷ tổ chức ở ngọn Bù Mắt (Năm Căn), bắt được tin địch ném bom, Nhựt nhanh chóng chèo xuồng báo cho lãnh đạo hay. Trên đường về, những chiếc máy bay phản lực đã lao xuống cắt bom. Nhựt ngã xuống, nằm úp mặt ở bìa rừng. Chiếc xuồng gác mỏ lên bến, cặp chèo buông xuôi sau lái như chờ người trở lại. Nhựt hy sinh trẻ quá, chưa có người yêu.

Căn nhà người chị ruột của Nhựt ở vàm Cái Tàu (xã Khánh An, huyện U Minh). Nhìn di ảnh của Nhựt, nhớ lại ngày 26/11/1967 định mệnh ấy.

Nhựt là em út trong gia đình có chín anh chị em. Ðang học đệ lục ở Cà Mau, tuổi cũng ngấp nghé quân dịch nên Nhựt được anh Ðoàn Quang Vũ (Năm Tân), đang là Chính trị viên Tiểu đoàn 306, rút vô vùng giải phóng tham gia kháng chiến. Xế chiều ngày 4/7/1966, Nhựt mã hoá được điện của Ðặc khu Hải Yến - Bình Hưng xin Tiểu khu hành quân đánh phá căn cứ ta. Nắm rõ lực lượng, giờ giấc, điểm đến của địch, Tiểu đoàn U Minh II đã chọn Ðòn Dong - Tân Quảng làm nơi tử huyệt của chúng. Từ 11 giờ 45 phút đến 13 giờ, trận đánh đã kết thúc thắng lợi, giòn giã. Ta đã tiêu diệt hoàn toàn Tiểu đoàn Bảo an 470 và 1 trung đội thám báo khét tiếng gian ác, trong đó có 4 cố vấn Mỹ; bắt sống 24 tên (có 1 cố vấn Mỹ), thu toàn bộ vũ khí. Chiến công đó có đóng góp thầm lặng của người cán bộ mã thám Ðoàn Văn Hiệp.

Nỗi đau càng tăng thêm khi phần mộ anh Tư Vui và Năm Nhựt chôn cất ở nghĩa trang đầu kênh xáng Bà Kẹo bị địch đóng đồn sang bằng. Sau này, gia đình Năm Nhựt đã xây ngôi mộ gió ở Nghĩa trang huyện U Minh cho anh.

3.

Phạm Văn Bảo anh về với đất

Vàm Kinh Ba đỏ lửa đạn thù

Anh ngã xuống chưa kịp về với mẹ

Con khờ đầu trắng tang cha

Nhà anh Phạm Văn Bảo ở lung Trùm Mạnh (Hiệp Tùng, Năm Căn), chỉ cách nơi anh hy sinh chừng 1 km đường chim bay. Nhanh lẹ, luôn cười để lộ mấy cái răng khểnh, anh là cha của hai đứa con nhỏ. Anh là cán bộ mã thám thứ ba của Văn phòng Tỉnh uỷ hy sinh (vào đêm 10/10/1969).

Gia đình chú Sáu Nhựt, cán bộ căn cứ Tỉnh uỷ, là chỗ dựa của cánh văn phòng. Chú có một dọc bốn người con gái có tên là Trường, Sanh, Phước, Thọ thì cánh văn phòng cưới hết ba. Ba Bảo cưới chị Trường là con cả, Phạm Minh Ánh cưới chị Phước, Bảy Nghĩa cưới chị Thọ, còn lại chị Sanh lấy chồng bộ đội. Từ ngày Phạm Văn Bảo hy sinh, chị ở vậy nuôi con, lam lũ với ruộng đồng.

Bị phục kích, tài liệu lọt vào tay địch, toàn hệ thống thông tin liên lạc bằng vô tuyến từ tiểu khu đến các đồn bót thay đổi mã hoá, ta bị “nghẽn” một thời gian ngắn. Nhưng nhờ chịu khó tìm tòi, đoán đúng quy luật, công việc “moi” tin trong lòng địch đã được khai thông.

4. Là người chỉ huy trực tiếp cao nhất của chúng tôi, anh Huỳnh Văn Nhụ (Tư Vững), Tỉnh uỷ viên, Chánh Văn phòng Tỉnh uỷ, giản dị, dễ gần, được anh em yêu thương, kính trọng. Anh quê tận Bến Tre, có đến bốn mặt con. Căn nhà của anh chị rất tạm bợ, nay chỗ này, mai chỗ khác. Chị là người phụ nữ chịu khó, tảo tần. Năm 1970, tình thế của cách mạng miền Nam gặp nhiều khó khăn, đồn bót địch dày đặc, vùng giải phóng bị thu hẹp. Trong chuyến qua sông Ông Ðốc đêm 30/7/1970, anh đã trúng đạn từ chiếc máy bay OV-10, hy sinh.

Nhớ lần Văn phòng ở sau vườn nhà anh Tư Rơi, chiều đã muộn, anh Trương Minh Hứa (Bảy Kềm) và anh y sĩ Nguyễn Âu (Tám Giao) đang đánh cờ tướng. Bỏ viết, anh Tư Vững rề lại, bất ngờ chỉ cho anh Tám Giao “lụm” con xe bên kia. Anh Bảy Kềm trố mắt, giận lắm, chỉ biết cười trừ.

Trong niềm vui về Xẻo Ðước, bùi ngùi nhớ những cán bộ Văn phòng Tỉnh uỷ đã ngã xuống. Có thể nói, trong chiến tranh Văn phòng Tỉnh uỷ được coi là nơi an toàn nhất, nhưng chiến tranh đã len lỏi khắp mọi nơi, mọi thời khắc, chiến tranh ở đâu cũng là mặt trận, chiến trường.

Tôi ước gì trong khuôn viên di tích, có thể dành một không gian giản dị nhưng trang trọng, đặt một bát hương; để cho những người đến đó có cơ hội thắp nén tâm nhang tưởng nhớ hàng vạn đồng bào, cán bộ, chiến sĩ đã ngã xuống vì độc lập, thống nhất đất nước, trong đó có các anh là cán bộ Văn phòng Tỉnh uỷ./.

 

Nguyễn Thái Thuận

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.