ĐT: 0939.923988
Thứ tư, 30-7-25 02:20:16
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Về Xẻo Ðước nhớ các anh

Báo Cà Mau (CMO) Mỗi lần về lại Di tích Căn cứ Tỉnh uỷ tại Xẻo Ðước, tôi như được sống lại cảm giác ngày xưa, những ngày công tác tại Văn phòng Tỉnh uỷ trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Tham gia công tác Văn phòng Tỉnh uỷ thời ấy, chúng tôi như những hạt cát rất nhỏ. Nhưng đối với những người đã hy sinh, thì hạt cát đó lại là máu xương của họ.

Tượng đài Căn cứ Tỉnh uỷ tại Xẻo Ðước.

1. Người đầu tiên tôi muốn nhắc đến là anh Phạm Quang Long (Tư Vui), liệt sĩ đầu tiên của Văn phòng Tỉnh uỷ, là cán bộ mã thám, tai mắt không thể thiếu lúc bấy giờ. Trong chiến dịch đánh vào căn cứ của ta, được nguỵ trang tìm diệt giáo phái Bình Xuyên, ngày 25/8/1961, anh Quang Long đã hứng một loạt đạn trọng liên trên chiếc máy bay “cồng cộc” sát hông nhà chú Hai Hiền ở Rẫy Mới, cặp sông Mỹ Bình.

Lập gia đình đã mấy năm nhưng anh chưa có một mụn con. Trước đó mấy hôm, anh nhắn về chị Huỳnh Thị Mười (Tư Ðào), vợ anh (nhà cách khu căn cứ chừng vài trăm mét), rằm tháng Bảy nấu chè, anh sẽ về ăn. Nhưng chiều 14/7 anh đã hy sinh.

Tôi được lãnh đạo phân công từ Rẫy Mới về Xẻo Ðước đón chị Tư Ðào. Ðêm trăng lúc mờ lúc tỏ, có lẽ những cụm mây trong cơn mưa chiều chưa tan. Hai chị em hì hục đi, gặp sông nhờ xuồng, có lúc chị quỵ xuống nức nở, tôi đỡ chị lên rồi đi tiếp. Ðêm, mùi thuốc súng như chưa tan, dọc đường có nhà còn chong đèn leo lét, tiếng chó tru xa xa rất thảm.

Tôi không biết có cơ duyên nào, từ A trưởng đơn vị địa phương quân Cái Nước, với khẩu súng trường tự động Mỹ, rất hợp với sức vóc vạm vỡ và cái miệng rất duyên của anh, anh lại trở thành cán bộ mã thám đầu tiên của Văn phòng Tỉnh uỷ. Một đồng đội mãi mãi nằm xuống, một mối tình son tan vỡ.

2. Ðoàn Nghĩa Hiệp (Năm Nhựt), cũng là cán bộ mã thám, bộ ba với Phạm Thạnh Trị (Bảy Trị) và Tô Minh Thứa (Ba Ðức). Trong lần đi phục vụ Hội nghị An ninh mở rộng do Tỉnh uỷ tổ chức ở ngọn Bù Mắt (Năm Căn), bắt được tin địch ném bom, Nhựt nhanh chóng chèo xuồng báo cho lãnh đạo hay. Trên đường về, những chiếc máy bay phản lực đã lao xuống cắt bom. Nhựt ngã xuống, nằm úp mặt ở bìa rừng. Chiếc xuồng gác mỏ lên bến, cặp chèo buông xuôi sau lái như chờ người trở lại. Nhựt hy sinh trẻ quá, chưa có người yêu.

Căn nhà người chị ruột của Nhựt ở vàm Cái Tàu (xã Khánh An, huyện U Minh). Nhìn di ảnh của Nhựt, nhớ lại ngày 26/11/1967 định mệnh ấy.

Nhựt là em út trong gia đình có chín anh chị em. Ðang học đệ lục ở Cà Mau, tuổi cũng ngấp nghé quân dịch nên Nhựt được anh Ðoàn Quang Vũ (Năm Tân), đang là Chính trị viên Tiểu đoàn 306, rút vô vùng giải phóng tham gia kháng chiến. Xế chiều ngày 4/7/1966, Nhựt mã hoá được điện của Ðặc khu Hải Yến - Bình Hưng xin Tiểu khu hành quân đánh phá căn cứ ta. Nắm rõ lực lượng, giờ giấc, điểm đến của địch, Tiểu đoàn U Minh II đã chọn Ðòn Dong - Tân Quảng làm nơi tử huyệt của chúng. Từ 11 giờ 45 phút đến 13 giờ, trận đánh đã kết thúc thắng lợi, giòn giã. Ta đã tiêu diệt hoàn toàn Tiểu đoàn Bảo an 470 và 1 trung đội thám báo khét tiếng gian ác, trong đó có 4 cố vấn Mỹ; bắt sống 24 tên (có 1 cố vấn Mỹ), thu toàn bộ vũ khí. Chiến công đó có đóng góp thầm lặng của người cán bộ mã thám Ðoàn Văn Hiệp.

Nỗi đau càng tăng thêm khi phần mộ anh Tư Vui và Năm Nhựt chôn cất ở nghĩa trang đầu kênh xáng Bà Kẹo bị địch đóng đồn sang bằng. Sau này, gia đình Năm Nhựt đã xây ngôi mộ gió ở Nghĩa trang huyện U Minh cho anh.

3.

Phạm Văn Bảo anh về với đất

Vàm Kinh Ba đỏ lửa đạn thù

Anh ngã xuống chưa kịp về với mẹ

Con khờ đầu trắng tang cha

Nhà anh Phạm Văn Bảo ở lung Trùm Mạnh (Hiệp Tùng, Năm Căn), chỉ cách nơi anh hy sinh chừng 1 km đường chim bay. Nhanh lẹ, luôn cười để lộ mấy cái răng khểnh, anh là cha của hai đứa con nhỏ. Anh là cán bộ mã thám thứ ba của Văn phòng Tỉnh uỷ hy sinh (vào đêm 10/10/1969).

Gia đình chú Sáu Nhựt, cán bộ căn cứ Tỉnh uỷ, là chỗ dựa của cánh văn phòng. Chú có một dọc bốn người con gái có tên là Trường, Sanh, Phước, Thọ thì cánh văn phòng cưới hết ba. Ba Bảo cưới chị Trường là con cả, Phạm Minh Ánh cưới chị Phước, Bảy Nghĩa cưới chị Thọ, còn lại chị Sanh lấy chồng bộ đội. Từ ngày Phạm Văn Bảo hy sinh, chị ở vậy nuôi con, lam lũ với ruộng đồng.

Bị phục kích, tài liệu lọt vào tay địch, toàn hệ thống thông tin liên lạc bằng vô tuyến từ tiểu khu đến các đồn bót thay đổi mã hoá, ta bị “nghẽn” một thời gian ngắn. Nhưng nhờ chịu khó tìm tòi, đoán đúng quy luật, công việc “moi” tin trong lòng địch đã được khai thông.

4. Là người chỉ huy trực tiếp cao nhất của chúng tôi, anh Huỳnh Văn Nhụ (Tư Vững), Tỉnh uỷ viên, Chánh Văn phòng Tỉnh uỷ, giản dị, dễ gần, được anh em yêu thương, kính trọng. Anh quê tận Bến Tre, có đến bốn mặt con. Căn nhà của anh chị rất tạm bợ, nay chỗ này, mai chỗ khác. Chị là người phụ nữ chịu khó, tảo tần. Năm 1970, tình thế của cách mạng miền Nam gặp nhiều khó khăn, đồn bót địch dày đặc, vùng giải phóng bị thu hẹp. Trong chuyến qua sông Ông Ðốc đêm 30/7/1970, anh đã trúng đạn từ chiếc máy bay OV-10, hy sinh.

Nhớ lần Văn phòng ở sau vườn nhà anh Tư Rơi, chiều đã muộn, anh Trương Minh Hứa (Bảy Kềm) và anh y sĩ Nguyễn Âu (Tám Giao) đang đánh cờ tướng. Bỏ viết, anh Tư Vững rề lại, bất ngờ chỉ cho anh Tám Giao “lụm” con xe bên kia. Anh Bảy Kềm trố mắt, giận lắm, chỉ biết cười trừ.

Trong niềm vui về Xẻo Ðước, bùi ngùi nhớ những cán bộ Văn phòng Tỉnh uỷ đã ngã xuống. Có thể nói, trong chiến tranh Văn phòng Tỉnh uỷ được coi là nơi an toàn nhất, nhưng chiến tranh đã len lỏi khắp mọi nơi, mọi thời khắc, chiến tranh ở đâu cũng là mặt trận, chiến trường.

Tôi ước gì trong khuôn viên di tích, có thể dành một không gian giản dị nhưng trang trọng, đặt một bát hương; để cho những người đến đó có cơ hội thắp nén tâm nhang tưởng nhớ hàng vạn đồng bào, cán bộ, chiến sĩ đã ngã xuống vì độc lập, thống nhất đất nước, trong đó có các anh là cán bộ Văn phòng Tỉnh uỷ./.

 

Nguyễn Thái Thuận

 

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.