ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 21-6-25 16:24:54
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Xưởng phim Tây Nam Bộ

Báo Cà Mau Tôi về công tác tại Xưởng phim Tây Nam Bộ vào năm 1970, khoảng 8 năm sau khi xưởng phim được thành lập. Thực ra, đơn vị này có 2 tên. Một là: “Xưởng phim Giải phóng Tây Nam Bộ” ghi ở đầu phim để định danh nơi sản xuất, bởi vì phim thời sự lúc đó còn có Hãng phim Thời sự tài liệu Trung ương (Hà Nội) và Xưởng phim Giải phóng (Cục Ðiện ảnh miền Nam). Hai là: Tiểu ban Ðiện ảnh (19A, C9) thuộc Ban Tuyên huấn Khu Tây Nam Bộ, cùng với nhiều Tiểu ban khác như: Tuyên truyền, Thông tấn - Báo chí, Văn nghệ... Cũng cần nói rõ thêm là bộ phận nhiếp ảnh khi thì thuộc Tiểu ban Ðiện ảnh (C9), lúc thì thuộc Tiểu ban Thông tấn - Báo chí (C8). Chẳng hạn khoảng 5 năm tôi công tác ở Tiểu ban Ðiện ảnh thì nhiếp ảnh thuộc Tiểu ban Thông tấn - Báo chí (C8).

Khi mới thành lập Tiểu ban Ðiện ảnh cũng như thời gian trú ngụ dài nhất của đơn vị này là ở rạch Xẻo Cùi, xã Tam Giang, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau. Cũng dễ giải thích điều này, vì Năm Căn là vùng rừng đước bạt ngàn mà căn cứ cách mạng trú ngụ suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ban Tuyên huấn Khu Tây Nam Bộ hình thành ở khu căn cứ ấy thì các tiểu ban cũng xuất hiện tại đây.

Theo các tư liệu còn lưu trữ thì Xưởng phim Tây Nam Bộ có khởi đầu là những Tổ triển lãm ảnh và ảo đăng (rọi to những tấm phim chụp lên tấm màn giấy hoặc vải). Dần dần, các đội chiếu phim hình thành để phục vụ ngày càng nhiều cho bộ đội và đồng bào. Phim chiếu lúc đó hầu hết là phim truyện và phim tài liệu do Hà Nội gửi vào hoặc phim tài liệu từ Cục Ðiện ảnh miền Nam (Tây Ninh) gửi xuống.

Khi nắm bắt được nhu cầu của Nhân dân và bộ đội là muốn xem thời sự của xứ mình, lãnh đạo Tiểu ban Ðiện ảnh quyết định sản xuất phim gồm: những cuốn thời sự tổng hợp nhiều mẫu, phóng sự, tài liệu. Thực ra đó cũng chỉ là phim “câm” (hình ảnh động, không lời, không tiếng động, không nhạc). Khi chiếu phim lên màn vải trắng, có người nhìn cảnh rồi đọc thuyết minh theo hình ảnh. Vậy mà được hoan hô, vỗ tay quá chừng! Có lẽ vì đó là “chuyện của xứ mình”.

Nói là phim “câm”, nhưng để làm ra nó không hề dễ dàng chút nào.

Trước tình hình khó khăn, ác liệt, bộ phận Nhiếp ảnh Khu 9 phải làm những bộ ảnh gọn nhẹ mang đến tận công sự, hầm tránh pháo ngoài đồng để phục vụ dân, góp phần đem lại niềm tin cho mọi người. Ảnh tư liệu

Trước tình hình khó khăn, ác liệt, bộ phận Nhiếp ảnh Khu 9 phải làm những bộ ảnh gọn nhẹ mang đến tận công sự, hầm tránh pháo ngoài đồng để phục vụ dân, góp phần đem lại niềm tin cho mọi người. Ảnh tư liệu

Những năm tôi công tác ở Tiểu ban Ðiện ảnh Tây Nam Bộ, đơn vị này có khoảng 40 người, trong đó: chiếu phim 12 người (3 đội), hậu kỳ 3 người, lãnh đạo 2 người, hành chánh và tài vụ 1 người, còn lại là quay phim (quay chính và phụ quay). Như vậy, lực lượng quay phim là đông nhất, mỗi đội quay gồm 2 người. Phân công là vậy, nhưng có những công việc, người này cũng làm choàng cho người kia được cả.

Về thiết bị và nguyên liệu để sản xuất phim, lúc ấy tôi chỉ biết loáng thoáng là: Một nguồn từ Hà Nội và Cục Ðiện ảnh miền Nam chi viện, một nguồn khác do cơ quan nhờ người ra thành thị mua. Mà biết loáng thoáng là phải rồi, chiến tranh thì việc ai làm nấy biết. Nghe đâu, có người đàn ông ra thành thị mua hoá chất làm phim cho cơ quan bị địch bắt. Sau này, tôi còn nghe em Lê Lệ Hồng, nguyên Phó chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ Cà Mau, kể lại chuyện em bị địch bắt (cùng với chiếc ghe chở vũ khí, máy chiếu phim, máy quay phim...) khi em là giao liên công khai.

Các đội quay phim (quay chính và phụ quay) thường được lãnh đạo phân công đi các tỉnh thuộc Khu Tây Nam Bộ. Ở một số chiến trường trọng điểm, có lúc từ 1-3 đội. Cả Xưởng phim, duy nhất có đội quay phim nữ gồm: đội trưởng Nguyễn Thuý Liễu (quay chính) và Ngô Hoàng Giang, là tôi (phụ quay). Ðội quay phim nữ không được phân công đi chiến trường có lẽ vì được “cưng”. Thực ra, có 1 nữ quay phim chính đã hy sinh ở lộ Vòng Cung Cần Thơ năm Mậu Thân (1968). Còn lại 1 nữ quay phim chính là chị Liễu đến khi tôi về công tác tại đây. Ðội nữ lúc này chỉ quay phim các cuộc mít tinh, xây làng chiến đấu, thanh niên tòng quân, đóng đảm phụ... Tuy đội nữ quay phim chỉ thực hiện những mẩu thời sự hậu phương nhưng cũng xém chết bao lần. Trong đó có chuyến quay phim xây làng chiến đấu ở xã Ba Viễn (nay là xã Tân Tiến, huyện Ðầm Dơi, tỉnh Cà Mau). Sau khi chị Liễu cùng cán bộ địa phương xác định điểm quay và vận động bà con xong thì địch đổ quân rất nhanh tại hiện trường. Hồi ấy gọi là “trận nhảy dò” - bầy trực thăng bắn rát rồi ập quân xuống luôn. May là lính đóng quân cách chỗ 2 chị em chừng 1 km, nên chờ đêm xuống, 2 chị em chèo xuồng về cơ quan, lúc đó ở rạch Sọ Ðầu trong cánh rừng đước ven kinh Ông Ðơn.

Các đội quay phim nam thì sự nguy hiểm còn gấp nhiều lần hơn. Có lần họp với các đội quay phim, chú Bảy Triển (Lê Châu), thủ trưởng cơ quan, nói: “Người quay phim còn phải dũng cảm hơn cả bộ đội. Bởi vì, bộ đội đứng dưới công sự, núp gốc cây hay bờ đất cũng bắn trúng giặc. Còn quay phim mà như vậy thì làm sao có những cảnh hay, chân thật, rõ ràng...”.

      Có lẽ vì nhiệm vụ thiêng liêng ấy mà mỗi người quay phim đã trở thành một chiến sĩ, kể cả là... liệt sĩ. Theo danh sách lưu giữ, năm Mậu Thân (1968) có khoảng chục chiến sĩ quay phim ngã xuống. Còn những năm tôi công tác ở Tiểu ban Ðiện ảnh, có một lễ truy điệu tại cơ quan (rạch Sọ Ðầu - kinh Ông Ðơn) cứ ám ảnh khôn nguôi. Ðó là lễ truy điệu 2 quay phim chính cùng hy sinh tại trận đánh Chi khu Ngã Năm (Sóc Trăng). Mãi đến bây giờ, 2 liệt sĩ Mai Thanh Liêm và Phạm Minh Tước vẫn không tìm được xác...

Thuở ấy, cứ mỗi con nước lớn vào ban đêm mà nghe tiếng khua xuồng chèo lụp cụp thì cả cơ quan thức dậy xem đội quay nào về...

Giờ, nói sang chuyện hậu kỳ phim. Trước kia thì không rõ, nhưng khi tôi về công tác ở Tiểu ban Ðiện ảnh (năm 1970) thì tất cả học theo cách truyền nghề (người đi trước dạy người đi sau). Gọi là lớp đào tạo quay phim (chỉ có 7 người), do anh Trần Thanh Hùng, thủ phó cơ quan, hướng dẫn. Tôi vừa học quay phim vừa học in, tráng phim cùng 2 bạn nữ, do chị Liễu hướng dẫn. Sợ nhất và khổ tâm nhất là làm hư phim gốc (phim quay xong chuẩn bị đưa vào thuốc hiện hình). Công đoạn dễ bị hư, mà hư thì vô phương cứu chữa. Ðó là khi quấn phim vào khung trong bóng tối, hoàn toàn tối đen, chỉ bằng cảm giác của ngón tay. Ðoạn phim chồng lên nhau thì thuốc không vào được, hình không lên - bỏ. Nếu đó là những cảnh thuộc về chiến sự thì... ôi trời! Khóc luôn! Những công đoạn khác của hậu kỳ phim không đến nỗi nào, làm chậm thì cố gắng làm nhanh, làm hư thì bị kiểm điểm về “tội” lãng phí. Chỉ có công đoạn khắc nghiệt “quấn phim gốc” mà tất cả đều xem là “xương máu” của các đội quay phim chiến trường.

Còn một chuyện nữa liên quan sự nghiêm ngặt khi hậu kỳ thời ấy nghĩ cũng nên kể lại, đó là nước để tráng phim (phim gốc và phim chiếu). Nguồn nước duy nhất để hậu kỳ phim lúc ấy là nước mưa, phải dự trữ nước mưa đến mức tối đa theo khả năng của cơ quan. Thùng chứa nước mưa được hàn từ tấm tôn rất lớn và sơn đen phía ngoài thùng, mỗi thùng chứa khoảng 2 mét khối. Thùng nước mưa được đặt trên sàn lót bằng cây đước, êm và chắc chắn. Tàu lá dừa nước được cột đuôi vào những cây đước xung quanh và thả cọng tàu lá vào thùng. Nắp thùng nước là tấm lá chầm để lá đước không rơi vào được. Những thùng nước để tráng phim là “bất khả xâm phạm”, chỉ thỉnh thoảng giở nắp thùng xem có vật lạ gì không. Nước sinh hoạt cho cơ quan (uống, nấu ăn, tắm, giặt...) là những cái thùng kém chất lượng hơn, hình như làm từ nguyên liệu thừa của các thùng nước để tráng phim. Mùa mưa thì thoải mái, mùa khô phải ra kinh Ông Ðơn, tìm chỗ “đổi nước” trên đồng về cho sinh hoạt của cơ quan. Tất nhiên, nước trên đồng kinh Ông Ðơn uống thì lơ lớ, còn gội tóc phải pha xà bông bột. Kể chuyện nước tráng phim để nói rằng: thời ấy, phim được “cưng” hơn người.

Có một sự ngây ngô mà tôi không thể nào quên, cũng xin được kể lại... Hôm đó, tôi thấy một anh quay phim chính (Ðội trưởng) cặm cụi đóng cái khung hình chữ nhật bằng cây đước con, rồi móc đất bùn bỏ vô đó. Xong, còn dùng 5 ngón tay vẽ loằng ngoằng mặt bùn. Tôi quan sát mà không hỏi vì sợ bị nghĩ là tò mò, hoặc sẽ bị chọc “quê”. Vậy rồi anh ta bỏ đi đâu cả buổi, tôi thì cứ thỉnh thoảng đi ngang nhìn cái mớ bùn đó. Vẫn không hiểu ra được gì, tôi nghĩ hay anh này có vấn đề về... thần kinh. Ðến khoảng trưa, nắng trong rừng đước toả xuống thành những đốm sáng, lướt qua lướt lại trên mặt bùn thì thấy anh ta xách máy quay phim ra quay. Tôi nghĩ, mấy anh đi quay phim chiến trường riết rồi bị “mát” hay sao? Quay cảnh, quay người thì không quay, mà đi quay bùn? Hoá ra là như vầy... Lấy đoạn phim gốc (quay bùn) in lần thứ nhất lên phim chiếu rồi lấy phim gốc quay bảng vẽ tên phim (nền đen, chữ trắng) in chồng lên đoạn phim gốc quay bùn. Xong, đem đoạn phim chiếu vừa in 2 lần cho vào thuốc, tên phim dần dần hiện lên trên nền “hoa văn màu xám lung linh nhè nhẹ...”, chứ tên phim không hiện ra chữ trắng trên nền đen thui... A..., ra là vậy! Cũng phải mất đôi ba ngày để hoàn thành công đoạn tạo phông nền cho tên phim. Vậy đó!

Hồi đó...! Giới trẻ bây giờ hay nói với nhau là ai mà hay nói “hồi đó...” là già rồi đó! Có lý! Tôi cũng thuộc thế hệ “hồi đó...” rồi! Thôi thì khi có dịp, tôi cũng xin được góp một đoạn rất ngắn “hồi đó...” vào chặng đường dài của báo chí cách mạng ở Cà Mau.

TP Hồ Chí Minh, tháng 3/2025

Nhà báo Ngô Hoàng Giang

Nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật TP Hồ Chí Minh

Báo ảnh Ðất Mũi - Tự hào 41 năm thực hiện sứ mệnh với quê hương

Báo chí cách mạng Việt Nam tính đến nay đã trải qua chặng đường dài 1 thế kỷ hình thành và phát triển, khẳng định vai trò và vị thế không thể thiếu trong đời sống xã hội, được Ðảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, tôn vinh. Trong hành trình chung ấy, báo chí Cà Mau chuyển mình theo kịp xu thế phát triển của báo chí cả nước qua từng giai đoạn, góp phần đắc lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển quê hương nơi địa đầu cực Nam.

Báo Cà Mau - Bạc Liêu - Những dấu ấn mái nhà chung

Xưởng phim Tây Nam Bộ

Tôi về công tác tại Xưởng phim Tây Nam Bộ vào năm 1970, khoảng 8 năm sau khi xưởng phim được thành lập. Thực ra, đơn vị này có 2 tên. Một là: “Xưởng phim Giải phóng Tây Nam Bộ” ghi ở đầu phim để định danh nơi sản xuất, bởi vì phim thời sự lúc đó còn có Hãng phim Thời sự tài liệu Trung ương (Hà Nội) và Xưởng phim Giải phóng (Cục Ðiện ảnh miền Nam). Hai là: Tiểu ban Ðiện ảnh (19A, C9) thuộc Ban Tuyên huấn Khu Tây Nam Bộ, cùng với nhiều Tiểu ban khác như: Tuyên truyền, Thông tấn - Báo chí, Văn nghệ... Cũng cần nói rõ thêm là bộ phận nhiếp ảnh khi thì thuộc Tiểu ban Ðiện ảnh (C9), lúc thì thuộc Tiểu ban Thông tấn - Báo chí (C8). Chẳng hạn khoảng 5 năm tôi công tác ở Tiểu ban Ðiện ảnh thì nhiếp ảnh thuộc Tiểu ban Thông tấn - Báo chí (C8).

Báo Cà Mau đồng hành cùng quê hương phát triển - Bài cuối: Hợp nhất sức mạnh

Năm 2020 đánh dấu bước ngoặt lịch sử của Báo Cà Mau bằng sự hợp nhất giữa Báo Cà Mau và Báo ảnh Ðất Mũi, tạo nên sức mạnh tổng hợp và động lực phát triển mới. Sự kiện này không chỉ là sự sáp nhập về mặt tổ chức mà còn là sự kết tinh kinh nghiệm và tiềm năng của 2 cơ quan báo chí hàng đầu của tỉnh.

Tạp chí Văn nghệ trong đời sống văn học, nghệ thuật Cà Mau

Một thế kỷ báo chí cách mạng Việt Nam là khoảng thời gian dài trong tiến trình lịch sử dân tộc. Tạp chí Lúa Vàng ra đời năm 1960 cũng có khoảng thời gian không ngắn để hình thành và phát triển của một tạp chí văn học, nghệ thuật miền đất cực Nam Tổ quốc. Tại buổi hội thảo khoa học này, tôi xin đại diện Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Cà Mau trình bày bài tham luận với nhan đề: “Tạp chí Văn nghệ từng bước khẳng định mình trong đời sống văn học, nghệ thuật Cà Mau”, nhằm góp phần tô đậm thêm chặng đường 65 năm qua của Tạp chí Lúa Vàng (tiền thân của Tạp chí Văn nghệ) - cơ quan ngôn luận của Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Cà Mau đã từng bước trưởng thành, góp phần đáng kể vào sự nghiệp cách mạng của quê hương, đất nước.

Nhớ mái nhà Báo ảnh Đất Mũi!

Những ngày cận tháng 6, đội ngũ những người làm báo tỉnh Cà Mau cùng hướng về sự kiện trọng đại: Kỷ niệm 100 năm Ngày Báo Chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925-21/6/2025). Ðây là dịp để mỗi người ngẫm thấu đáo hơn nghề báo vinh quang trên mặt trận văn hoá tư tưởng của Ðảng, để từ đó nguyện lòng giữ trọn tâm huyết phụng sự, giữ vững lửa nghề. Hoà chung dòng cảm xúc với đồng nghiệp, trong niềm riêng tây, chúng tôi bồi hồi nhớ về mái nhà xưa: Báo ảnh Ðất Mũi. Bởi lẽ, trong dòng chảy 100 năm lịch sử báo chí cách mạng Cà Mau có sự góp mặt của Báo ảnh Ðất Mũi trong vai trò một binh chủng đắc lực với 41 năm cống hiến cho sự phát triển của báo chí tỉnh nhà (1979-2020), hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được Ðảng và Nhân dân giao phó, góp phần cho sự phát triển quê hương, trước khi kết thúc sứ mệnh từ ngày 1/1/2021 hợp nhất với Báo Cà Mau, với tên gọi mới là Báo Cà Mau theo yêu cầu phát triển lớn mạnh của báo chí Cà Mau trong giai đoạn mới.

Báo Cà Mau đồng hành cùng quê hương phát triển - Bài 2: Hội nhập và phát triển

Bước sang thập niên thứ 2 của thế kỷ 21, Cà Mau chứng kiến sự hội nhập sâu rộng và đà phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực. Ðể đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của độc giả, Báo Cà Mau không ngừng đổi mới và nâng cao tần suất hoạt động.

Ðảng dẫn lối - Không ai bị bỏ lại phía sau - Bài cuối: Lòng dân hướng về Ðảng

Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, các thế lực thù địch không ngừng gia tăng hoạt động chống phá Ðảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, càng đòi hỏi nhiệm vụ công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch phải đặt lên hàng đầu.

Báo chí cách mạng Cà Mau - Tự tin, tự hào trên mặt trận tư tưởng

Báo Thanh Niên mang lại hiệu ứng cực kỳ to lớn trong cuộc vận động phong trào cách mạng Việt Nam và cuộc vận động thành lập Ðảng Cộng sản Việt Nam nên Trung ương lấy ngày 21/6/1925 - ngày ra số báo Thanh Niên đầu tiên làm ngày truyền thống Báo chí cách mạng Việt Nam. Báo chí cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo, chăm sóc, giáo dục, rèn luyện của Ðảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ trở thành lực lượng xung kích trên trận địa chính trị, tư tưởng của Ðảng qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng.

Ðảng dẫn lối - Không ai bị bỏ lại phía sau - Bài 2: Nơi yêu thương lan toả

Những năm qua, các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng mạng xã hội để phát tán những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Một trong những luận điệu lặp đi lặp lại là: “Xã hội Việt Nam thiếu lòng nhân ái, con người ngày càng trở nên thờ ơ, vô cảm trước những khó khăn, bất hạnh của nhau”. Ðây là sự vu cáo vô căn cứ, không chỉ xúc phạm phẩm chất nhân văn của người Việt mà còn đi ngược hoàn toàn với thực tế đang diễn ra hằng ngày.