Nằm giữa Cái Đôi Phố, Cái Đôi Vàm - hai khu phố náo nhiệt nhất vùng ven biển huyện Phú Tân (tỉnh Cà Mau), nhưng: “Bình Hưng trầm tư lặng lẽ như một cụ già đi qua một thời sóng gió” - anh bạn cùng đi với tôi buột miệng thốt lên một câu như vậy. Không biết điều đó khập khiễng đến chừng nào, nhưng riêng tôi cảm thấy sự so sánh của anh có cái gì ngồ ngộ, thậm chí rất hình tượng. Thế nhưng khi ấy, tôi cho anh cứ “văn vẻ hoa lá cành”, con người ai lại so sánh với một vùng đất? Chỉ đến lúc này tôi mới hiểu ra câu ví của anh, bởi: Con người ta là hoa của đất. Đất nuôi nấng con người nên con người một lòng một dạ sống chết vì đất, gắn bó thủy chung không thể tách rời tựa như máu thịt. Với Bình Hưng, sự thủy chung ấy còn chất chứa bao điều thiêng liêng, chua xót. Nó cứ âm ỉ rên xiết trong lòng đất, lòng người những nỗi đớn đau quặn thắt...

Giặc Mỹ càn phá xóm làng. Ảnh: T.L
Ngày xưa, khi đặt cho vùng đất hẻo lánh này cái tên Bình Hưng, có phải ông cha mong muốn nó luôn được an bình, hưng thịnh, hay sự bình yên giàu có của nó đã gợi lên cái ý nghĩa này. Nhưng dù đó là sự mong muốn hay sự ưu đãi của thiên nhiên thì bây giờ “Bình Hưng đã trầm tư, lặng lẽ như một cụ già đi qua một thời sóng gió”. Cái lặng lẽ ở đây không còn giới hạn trong nghĩa bình yên nữa mà đây còn là sự lặng lẽ của người nghèo, của vùng đất “uể oải” thương tích. Có lẽ cũng không quá đáng khi phải nói những lời này với Bình Hưng vì thực tại cuộc sống của con người còn bao khó khăn, thiếu thốn. Họ còn cần nhiều thời gian lắm mới có thể tạo dựng, khôi phục đầy đủ ý nghĩa cái tên của vùng đất mà ông cha xưa hằng mong ước.
Trong sự thiếu hụt hôm nay có miếng cơm manh áo, cả sự thiếu hụt về đời sống văn hóa, tinh thần của những người già - những người đã đi qua chiến tranh nhưng vẫn còn hụt hẫng một cái gì đó chưa hàn gắn nổi…
Nó đòi hỏi một sự phấn đấu không ngừng của mọi người, mọi nhà mới có thể bù đắp.
Chúng tôi làm một cuộc du khảo quanh xã Phú Tân để tìm hiểu cụ thể đời sống của người dân. Cả xã không có một gia đình nào nằm trong diện thiếu đói, nhưng cũng lạ là ít có gia đình nào lại trội hẳn lên để được xếp trong diện “nhà giàu”. Theo số liệu tổng điều tra của xã vào tháng 10/1989, toàn xã chỉ có 84 cái tivi, 167 cái catssette và 80 cái radio. Nếu tính bình quân trên tổng số 6.000 dân thì phải đến 70 người/tivi, gần 70 người/radio, 35 người/catssette. Nhưng phần lớn tập trung ở khu vực chợ, còn nông thôn có những nơi phải 50 - 70 hộ mới có một tivi…
Nhưng điều làm cho mọi người phấn khởi hơn hết là 3 năm trở lại đây xã đã có trường cấp III với lượng học sinh theo học bình quân mỗi năm trên dưới 200 em; có một bệnh viện có thể nhận từ 80 - 100 bệnh nhân, có 2 bác sĩ, 4 y sĩ… Đó là điều hiếm thấy đối với một xã thuộc huyện vùng sâu. Giải thích về điều này, anh Nguyễn Minh Trọn (Bí thư Đảng ủy xã) nửa đùa, nửa thật: “Ở đây, sự chết chóc, mất mát trong chiến tranh đã quá nhiều rồi, chúng tôi không muốn đau khổ có trong thời bình”... Trên báo Minh Hải ngày 25/12 còn có bài giới thiệu phong trào y học dân tộc của xã. Hội Y học dân tộc có một quyết tâm thống nhất là: Khi đến, mỗi bệnh nhân có những tâm trạng lo âu khác nhau, nhưng khi ra về đều nở nụ cười phấn khởi… Rồi sự giao lưu với các vùng từng bước rộng ra, phương tiện đi lại ngày một dễ dàng, không còn cái cảnh thức khuya dậy sớm chờ… đò. Phú Tân đã bắt đầu chuyển động - không ít người đồng ý với nhận định này.
Nhưng trong niềm vui phấn khởi đó vẫn không khỏa lấp nổi những đau thương mất mát, nó cứ âm ỉ triền miên trong mỗi căn nhà do chế độ đẫm máu của Nguyễn Lạc Hòa để lại. Cứ mỗi độ tết đến xuân về, trong lòng những người già lại khắc khoải, thiếu vắng. Ngày tháng trôi qua đã mấy chục năm rồi, lớp trẻ sinh ra sau này khó có thể hình dung nổi nhưng với những người già vẫn còn nhớ như in.
“Làm sao mà quên được hở cháu?” - ông Tám (một trong những tù nhân của Bình Hưng, ngày trước) đã mở đầu bằng một giọng buồn buồn khi tôi hỏi về những tội ác của bọn Tàu Phù (cách gọi đội quân dã man ở Bình Hưng). Tôi có thằng con bị chúng mổ bụng năm 1960 (lúc ấy nó mới 18 tuổi). Mổ xong, chúng lấy gan thằng nhỏ xào ăn. Tôi cũng bị bắt nhưng không làm gì cứu con được. Chúng bắt tôi phải ăn thì chúng thả, tôi không chịu, chúng đánh ngất lên ngất xuống. Khi tôi tỉnh lại thì cái gan thằng nhỏ không còn nữa…
Nói đến đây, ông già khóc tức tưởi. Chúng tôi ai nấy đều nghèn nghẹn ở cổ. Từ đó, mỗi lần tết đến, ông cắm nhang để nhớ con, mỗi năm cắm thêm một cây, cho đến tết này nữa thì bó nhang phải đến 31 cây, nhưng ông vẫn lầm lũi với công việc ấy, lòng ông chưa nguôi được.
Trong số những người may mắn còn sống sót từ nhà tù Bình Hưng còn có Quách Văn Đằng, Phạm Văn Chương, Năm Nhật, Phạm Văn Tư, Tô Ngọc Xem… nhưng cuộc sống tinh thần tan nát bởi quá nhiều đau khổ, mất mát và chính sự đau khổ ấy đã làm cho họ chai sạn, lầm lì…
Đến Bình Hưng, chúng tôi còn nghe biết bao gia đình với những bi thương khác nữa, có những sự thật mà không thể nào tưởng tượng nổi. Gia đình ông Sáu Hòa bị bọn Bình Hưng đốt chết cùng một lúc 5 người, trong đó có cô con dâu và người vợ của ông đang mang thai. Mẹ ông và hai đứa cháu, chúng dùng dây xâu lại quăng vào lửa buộc ông phải chứng kiến cái cảnh kinh hoàng đó trong tiếng cười sặc sụa thỏa thích của chúng. Để rồi sau đó ông hóa điên…
Chị Ty, chị Kiều, chị Phạm Thị Tám bị chúng bắt, thực hiện bao nhiêu trò thú tính man rợ… Các chị về sau cũng điên dại rồi chết… Và còn biết bao nhiêu điều dã man, ghê rợn nữa mà bọn Tàu Phù Bình Hưng đã làm như: chặt đầu, mổ bụng, moi gan, dùng lửa thiêu đốt hoặc hãm hiếp phụ nữ, trẻ em… Mỗi cuộc càn quét là tội ác của chúng thêm chồng chất. Bằng chứng là những bàn thờ tang còn nghi ngút khắp vùng. Nhưng trong bài báo này chúng tôi không có điều kiện ghi hết. Hơn nữa, trong số những nạn nhân do chúng gây ra có người đến nay vẫn còn sống, gợi lại làm gì những nỗi đau trong lòng họ cho thêm nhức buốt.
Trong bài viết này, tôi muốn ghi nhận một điều là trong “cái nghèo” của Bình Hưng hôm nay (thì ắt hẳn là do chiến tranh rồi) nhưng cái điều tai ác nhất là phía sau cuộc chiến đó để lại một hậu quả quá lớn, đó chính là sự sa sút tinh thần kéo dài đăng đẵng… Phải chăng đó chính là điều lý giải phần nào cho cái nghèo của một bộ phận dân cư ở Bình Hưng trong hiện tại? Trước khi từ giã ông Tám ra về, tôi không quên đốt một nén hương trên bàn thờ của người đã khuất. Trong làn khói hương là đà quyện vào không khí mùa xuân mới, từ trong lòng người, lòng đất Bình Hưng nghe như vẫn còn những tiếng vọng bi thương, xa thẳm.
Bình Hưng, tháng 12/1990
Nguyễn Duy Hoàng

Truyền hình







Xem thêm bình luận