ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 1-6-25 00:06:06
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ăn Tết ở làng rừng

Báo Cà Mau Tôi đang mở trường tư thục, dạy trên 150 học trò. Bí thư Chi bộ xã Lương Hoà là đồng chí Tư Tài, đem nghị quyết Tỉnh uỷ Bến Tre rút tôi về Ban Văn nghệ tỉnh. Chưa kịp thu xếp đi, thì má tôi (bà Hồ Thị Luỹ) ở Cà Mau qua tới. Má tôi chẻ trái chuối xiêm ra, đưa cho tôi lá thư ngắn của anh Hai Thống (Trần Hữu Vịnh, Bí thư xã Khánh Bình Tây, sau này là Phó bí thư Tỉnh uỷ Minh Hải) kèm theo mấy lời chú Chín Thép, Uỷ viên Thường vụ xã (viết chung ý là “Đám giỗ làm lớn cúng ông bà, chú phải về quê nhà để cúng ông bà báo hiếu”).

Tiết mục múa “Tay cày tay súng” do biên đạo múa Võ Thanh Hồng dàn dựng (30/10/1972). Ảnh tư liệu

Tiết mục múa “Tay cày tay súng” do biên đạo múa Võ Thanh Hồng dàn dựng (30/10/1972). Ảnh tư liệu

Tôi thu xếp mọi thứ trong một ngày đêm, cho má tôi về Cà Mau trước. Sáng hôm sau anh tôi đem xe lam pết-ta, ăn mặc sang trọng như công chức, qua Lương Hoà rước tôi từ Bến Tre tìm xe về Cà Mau. Lính nguỵ thấy chúng tôi sang trọng nên chúng không hỏi han, ngăn cản gì. Chiều 22 tháng Giêng, tôi vào tới Làng rừng Khánh Bình Tây (ấp Sào Lưới - Mũi Tràm).

Thấy tôi ăn mặc, đi giày, đội nón trắng, anh em trinh sát của ta báo có một tên Việt gian xâm xâm vô làng rừng. Ðến chừng gặp nhau, mừng vui sao kể xiết! Chú Chín Thép vỗ đầu tôi: “Có cháu về, phong trào thanh niên sẽ lên cao”. Anh Hai Thống nhìn tôi, xúc động: Các cháu con tôi thường nhắc chú...

Sau đó, Tư Giàu, Hai Ðá, Ba Hồng, Tư Thoại, Dinh... những bạn bè, cũng là những đoàn viên, là học trò cũ của tôi mấy năm trước chạy lại mừng vui, ôm tôi mà rưng rưng nước mắt.

Chú Chín Thép liền phổ biến kế hoạch mừng Tết Làng rừng Khánh Bình Tây Canh Tý (1960) có mời làng rừng bạn, Huyện uỷ và Tỉnh uỷ Bạc Liêu, mời các cơ quan huyện, tỉnh ở gần làng rừng mình... chuẩn bị cho hơn 150 khách (hoặc 200 khách).

Anh Hai Thống đề nghị mời hết anh em vào phòng khách, uống trà, ăn bánh trò chuyện, phân công nhau kỹ hơn và chọn chòi nóc vỏ tràm cho chú Bá ở, bố trí cho chú gặp lại cô Út Chúc nhân Tết này.

Tôi bước qua mấy trảng choại, bồn bồn được hàng ngàn cây tràm cổ thụ cao vút đổ bóng che chắn cho máy bay địch không phát hiện được nơi ở của ta. Ngày nào L19 (máy bay trinh sát của Mỹ, mà bà con ta gọi là đầm già) cũng quần đảo, phóng pháo, nhưng ta vẫn lặng im để chúng không phát hiện.

Ðến một nhà khách cao lớn, mát mẻ, lợp vỏ tràm, ván tràm đóng chung quanh theo nghệ thuật xây đình chùa Việt. Anh Hai Thống nói, ta đã xây cất xong hội trường ngồi đủ 200 người, có sân khấu biểu diễn văn nghệ ca vũ, và có bục đặt micro để lãnh đạo diễn thuyết...

Ta lót ván tràm làm sân khấu cho đoàn văn công tập dượt các bài múa vũ Liên Xô, Trung Quốc và Tây Nguyên. Nhà nấu ăn, nơi chống khói, nước rửa chén bát, nguồn nước sạch, kể cả cầu vệ sinh... cũng được chuẩn bị chu đáo, đảm bảo an toàn, vệ sinh cho tất cả khu Làng rừng Khánh Bình Tây.

Tư Giàu, Hai Ðá nói: Khi anh đi Sài Gòn, chúng tôi vô làng rừng với 200 anh em khác vác lúa gạo cho làng rừng. Nhưng vác lội 2, 3 lần đường cũ bị lầy phải đạp đường mới. Nhưng tuổi trẻ Khánh Bình như anh Phan Minh Tánh (sau này là Bí thư Khu đoàn Tây Nam Bộ) nói: “Nhanh như máy bay, xoay như chong chóng, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành”.

Lúc anh Hai Thống và chú Chín Thép bảo tôi từ giã bạn bè để đưa tôi vào căn chòi vỏ tràm nhỏ gọn mới làm xong chiều qua. Tôi đi trên cây tràm lớn, được anh em hạ ngã xuống nối nhau làm đường đi tới lui, liên lạc các cụm chòi làng rừng. Anh Hai và chú Chín bảo tôi vô chòi ngồi trên ghế chờ họ đưa Út Chúc tới. Tôi nhớ, khi hát bài “Hồ Chí Minh - Cha chúng ta về” để đón chào Trưởng ty Giáo dục Bạc Liêu đến thăm trường Nhà Máy (năm 1957), Trà Thị Chúc mới có 15 tuổi. Lát nữa đây tôi sẽ gặp cô gái xinh đẹp 18 tuổi.

Chiều ấy, ánh hoàng hôn từ vịnh biển Thái Lan xuyên qua rừng tràm và dớn choại, chiếu vào căn chòi. Tôi và Út Chúc đang ngồi chuyện trò, ráng chiều xuyên qua chúng tôi. Tôi hỏi, bao người thân ai còn ai mất và sẽ quyết tâm trả thù. Chúng tôi nói chuyện cho tới khuya. Tôi dùng đèn pin co đưa Út Chúc về mà lòng cứ vấn vương.

Hôm nay còn 9 ngày nữa là ăn Tết làng rừng. Ban tổ chức cần tới 5 cưa xả mới đủ gỗ tràm lót sàn chứa 200 người và khán đài, phòng trà, phòng nghỉ cho 100 nữ đàng hoàng (chỗ tắm rửa, giặt giũ chu đáo).

Than để nướng thức ăn cho khách phải dự bị 1 tấn than, 500 con tôm càng lớn, 500 con cá lóc cơi, 5 lít mật ong để pha nước mắm và thấm thịt nướng, nấu ca ri 5 con trăn (mỗi con 30 kg), 2 con heo rừng, 3 con nai (những vật thực này do chú Hai thợ săn (kinh Lung Tràm) và chú Tám Mật ở rạch Giồng Ông cho).

Cá chẽm, cá ngát, cá biển, ruốc, tôm tép do anh em ghe cào lưới (Sào Lưới, Mũi Tràm, Ðá Bạc đem cho). Bánh tét, bánh ít, bánh ú nước tro do chị Tư Lèo vận động bà con ở Công Nghiệp, Rạch Lùm gửi cho 5 xuồng. Nước đá và Lavie (bia) chai do Hai Huệ, đoàn tàu viễn dương đi tàu hai đáy vượt biển gởi tặng từ bãi biển Mũi Tràm.

Cờ sao Tổ quốc và cờ Ðảng do đồng chí Năm Bằng, Phó bí thư Huyện uỷ, Trưởng ban Quân sự tỉnh chỉ huy; hình ảnh lãnh tụ Mác, Ăng-ghen, Lê-nin, Hồ Chí Minh, Mao Trạch Ðông... ta có đủ.

Tất cả các loài hoa phù hợp với ngày Tết làng rừng đều được học trò cũ của ấp Nhà Máy chọn hoa và rọng cho hoa tươi sống lâu để trưng dịp Tết làng rừng.

Cho dù L19 luôn soi mói quần đảo, nhưng cách nghi trang khéo léo của ta làm chúng không phát hiện được. Chiều 29 Tết, chúng phóng pháo rồi về.

Từ 2 giờ sáng, bác Hai Sơn và bác Sáu Ðạt đã giục Hai Ðông thức dậy lấy máy Kole 7 đặt lên xuồng be chín chạy xuống làng Trương Phùng Xuân, quẹo vô kinh Làng rừng Khánh Bình Tây. Nước dưới kinh bị máy Kole 7 ép xô ào ào hai bên mé. Sương đêm và mạng nhện vướng vào đầu cổ hai ông già, nhưng xuồng máy cứ việc rấn lên như bay tới. Tờ mờ sáng là Hai Ðông đã đưa hai ông cụ tới nơi. Chú Chín Thép và anh Hai Thống hiểu ý nên nấu nước châm trà, mời hai ông cụ lên phòng khách.

1 giờ sau mới tới xuồng chị Út Bình, chị Sáu Nữ - phụ nữ khu, chị Ba Dân, chị Tư Hiên - phụ nữ huyện Trần Văn Thời. Ðội vệ sĩ chạy qua rạch Công Nghiệp rước chú Sáu Thinh (chiến sĩ Nam kỳ khởi nghĩa).

10 giờ trưa hôm đó, 5 vỏ lãi chở các anh, các chú Bí thư Huyện uỷ Ba Biền, Phó bí thư Chín Cư, anh Ba Ngọc, anh Tư Văn, anh Chín Khung (Văn phòng Huyện uỷ); Tư Ninh, Năm Tâm (Ðội bảo vệ Huyện uỷ)... Từ xã Khánh An qua, có anh Ðoàn Thanh Vị (sau này là Bí thư Tỉnh uỷ Minh Hải) chở 1 xuồng 9 người; xã Nguyễn Phích, anh Năm Sa cũng đến 1 xuồng máy 9 người, mặt ai cũng tươi như hoa; xuồng máy ở Làng rừng Thới Bình chở 15 người cũng vừa kịp đến...

Theo quy định của Ban Chỉ đạo, khu vực làng rừng năm 1959 xã Khánh An đã ăn Tết lớn một lần, Tết năm nay (năm 1960) Làng rừng Khánh Bình Tây ăn Tết lớn một lần này rồi Ðồng khởi.

Công tác chuẩn bị đã hoàn thành, 12 giờ chào cờ hành lễ. Ban Chỉ huy Huyện đội thực hiện nghi thức chào cờ, mặc niệm liệt sĩ và tất cả hướng về chân dung Bác Hồ. 3 đoàn văn công thay nhau múa hát trong 2 giờ liền, có tiết mục nghệ sĩ Út Chúc hát bài: “Hồ Chí Minh - Cha chúng ta về”, giọng xúc động, lời bài hát thiêng liêng.

Sau đó, các cán bộ lãnh đạo nói về Ðảng, Bác Hồ, công việc kháng chiến, sự tuyệt vời và bất hủ của Làng rừng U Minh - Cà Mau... Dịp Tết Canh Tý năm 1960 được tổ chức tại Làng rừng Khánh Bình Tây mãi là dấu ấn khó phai mờ./.

 

Nguyễn Bá

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.