ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 31-7-25 22:30:39
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Anh hùng của những anh hùng

Báo Cà Mau Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

Ông Tư Cang là chỉ huy của 4 đơn vị AHLLVTND: Cụm tình báo H63, Lữ đoàn đặc công biệt động 367, Lữ đoàn đặc công biệt động 316, Phòng tình báo miền J22; và là thủ trưởng của 3 AHLLVTND: Phạm Xuân Ẩn, Nguyễn Thị Ba và Nguyễn Thị Yên Thảo (Tám Thảo).

Từ làng long phước đến đất thép Củ Chi

Ông Tư Cang sinh năm 1928, ở làng Long Phước (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), trong gia đình nghèo. Ngay từ nhỏ, ông Tư Cang đã bộc lộ tư chất thông minh, ham học và học rất giỏi. Ông từng đậu hạng 7 trong số hơn 600 học sinh Nam Kỳ lục tỉnh để giành học bổng của Trường Pétrus Ký (nay là Trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong, TP Hồ Chí Minh).

Ngày 25/8/1945, ông Tư Cang khi ấy 17 tuổi, đội viên Ðội Thanh niên Tiền phong, đã cầm tầm vông vạt nhọn cùng đồng bào quê hương nhất tề giành chính quyền về tay Nhân dân. Thoát ly gia đình theo cách mạng năm 1947, suốt thời kháng chiến chống Pháp, ông Tư Cang hoạt động quân báo trên nhiều vị trí khác nhau tại Tỉnh đội Bà Rịa - Chợ Lớn.

Năm 1954, 9 năm kháng Pháp thắng lợi, thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ, ông Tư Cang lên tàu đi tập kết ra Bắc để tiếp tục công tác, học tập trong quân đội. Sống trong cảnh “ngày Bắc, đêm Nam”, lòng đau xé khi biết Mỹ - Diệm đang giày xéo miền Nam, gieo tội ác tày trời, ông Tư Cang lòng sục sôi nung nấu ngày trở về.

Ông Tư kể: “Lẽ ra, tao về Nam trong chuyến đầu, rồi tổ chức kêu ở lại học lớp tình báo 6 tháng. Vậy là cuối năm 1961 mới về Nam theo đoàn Phương Ðông 2. 100 ngày đêm vượt dãy Trường Sơn, trèo non, lội suối, bám đá, vẫn hừng hực khí thế vì miền Nam đã ngày một gần. Về tới Chiến khu Ð thì đã sang năm 1962”.

Ông Tư Cang nhận nhiệm vụ về căn cứ Củ Chi để xây dựng cụm tình báo chiến lược thu thập thông tin tình báo trong đô thành Sài Gòn, đầu não của chế độ cũ. Ông gọi Củ Chi đất thép với hệ thống địa đạo là một kỳ quan trong nghệ thuật kháng chiến của Nam Bộ nói riêng, cả nước nói chung. Củ Chi, nơi mỗi người dân đội trên đầu khoảng 1,5 tấn bom đạn của Mỹ - nguỵ vẫn kiên cường, bất khuất, hiên ngang trụ vững, trở thành căn cứ địa vững chắc của kháng chiến cho tới ngày toàn thắng.

Cũng tại Củ Chi, Cụm tình báo A18, sau này đổi tên là H63, dưới sự chỉ huy của ông Tư Cang đã lập nên những chiến công phi thường, lừng lẫy trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Bí thư Tỉnh uỷ Cà Mau Nguyễn Hồ Hải, Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang, hàng đầu, người mặc quân phục) cùng thế hệ trẻ tỉnh Cà Mau, TP Hồ Chí Minh chụp ảnh lưu niệm nhân chuyến về nguồn tại căn cứ Củ Chi.

Bí thư Tỉnh uỷ Cà Mau Nguyễn Hồ Hải, Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang, hàng đầu, người mặc quân phục) cùng thế hệ trẻ tỉnh Cà Mau, TP Hồ Chí Minh chụp ảnh lưu niệm nhân chuyến về nguồn tại căn cứ Củ Chi.

Huyền thoại H63

Khi tổ chức xây dựng Cụm tình báo H63, điều đầu tiên ông Tư Cang nghĩ tới là lời dạy của Bác Hồ về công tác tình báo: “Phải luôn luôn dựa vào dân và đi sát địch thì mới có kết quả”. Làm tình báo ngay ở sào huyệt giặc, ông nói với anh em rằng, ghi vô trong ngực 4 chữ “coi như chết rồi” khi làm nhiệm vụ.

Nhưng với ông Tư Cang, Nhân dân mới là anh hùng chân chính, đúng nghĩa nhất. Công lao che chở, đùm bọc, hy sinh của bà con để bảo vệ, ủng hộ cách mạng thì không có gì so sánh được. Không có thế trận lòng dân vững chắc thì Cụm tình báo H63 khó bề hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Dưới quyền chỉ huy của ông Tư Cang là “điệp viên hoàn hảo” Phạm Xuân Ẩn. Với vỏ bọc nhà báo, ông Ẩn tung hoành ngay giữa hang ổ địch, thu thập được rất nhiều tài liệu, tin tức có giá trị chiến lược chuyển ra cho cách mạng, đóng góp lớn vào việc hoàn thành nhiệm vụ của Cụm H63.

Về cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968, ông Tư Cang chiêm nghiệm: “Bác Hồ nói rồi, đánh cho Mỹ cút trước, rồi kiểu gì kiểu nguỵ cũng nhào. Mậu Thân năm 1968 chính là cú đánh trời giáng để đánh bại hoàn toàn, tận gốc ý chí xâm lược của Mỹ”.

Giọng nói ông Tư trầm xuống: “Ðợt 1 tiến công, ta tổn thất nhiều. Dù vậy, trận đánh vào đại sứ quán Mỹ phải được lịch sử coi là một chiến công hiển hách, một mốc son chói lọi. 11 chiến sĩ dám đánh thẳng vào Ðại sứ quán Mỹ, leo đến tầng 3, trụ đến viên đạn cuối cùng, con người cuối cùng. Trận này làm hoảng loạn tới cả Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson”.

Ðiện khẩn từ tình báo miền, do ông Sáu Trí (Thiếu tướng Nguyễn Văn Khiêm, khi ấy là Trưởng phòng Tình báo Miền - B2) gởi ông Tư Cang: “Một cán bộ cao cấp của ta vừa ra hàng giặc, đồng chí hãy ra ngay Sài Gòn lấy bản cung của hắn đem về. Việc rất gấp”. Trên đường trở lại Sài Gòn, ông Tư Cang mua tờ báo Thần Chung, trang nhất có hàng chữ lớn: “Thượng tá Tám Hà đã trở về với chánh nghĩa quốc gia”. Dưới chữ là cái ảnh lớn, gồm Tám Hà, Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ, tướng 4 sao Westmoreland, và tên đại tá nguỵ Phạm Quốc Thuần.

Việc thu thập lời khai của tên phản bội chiêu hồi Tám Hà (tức Trần Văn Ðắc, Trung tá, Phó chủ nhiệm Chính trị cánh quân phía Bắc của ta đánh vào Sài Gòn đợt 1 Mậu Thân) được triển khai nhanh chóng, với sự chỉ đạo trực tiếp của ông Tư Cang và sự phối hợp tài tình của ông Phạm Xuân Ẩn. Có trong tay bản khai đầy đủ, ông Tư Cang nghĩ: “Kiểu này đánh đấm gì nữa, tên phản bội Tám Hà khai hết ráo trọi kế hoạch tấn công đợt 2 của ta”. Nhưng bằng trực giác và tính cẩn trọng của nghề tình báo, ông Tư Cang cùng với ông Ẩn vẫn tiếp tục thu thập tin tức từ các phía để có một báo cáo đầy đủ, cùng với đó là sự phân tích, tham mưu tối ưu nhất có thể, chuyển về trên.

Nguồn tin của ông Phạm Xuân Ẩn thu thập được quá quan trọng, có giá trị mang tầm chiến lược. Tổng thống Mỹ Johnson rất sợ ta tiếp tục đánh lần 2. Và nếu ta tấn công “đánh bồi, đánh nhồi” lần nữa thì Mỹ chỉ có nước “thương lượng rút quân”.

Khi đã có đầy đủ thông tin, ông Tư Cang soạn báo cáo và tham mưu về trên, trong đó có đoạn: “Tôi đề nghị cấp trên nếu đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt thì ta chấp nhận hy sinh, dồn sức đánh một đợt nữa vào Sài Gòn”. Ðến đây, ông Tư Cang nghẹn ngào: “Cái giá của hoà bình, độc lập là biết bao xương máu, hy sinh”...

Cụm tình báo H63 hoạt động trong điều kiện cực kỳ gian khó, nguy hiểm, sinh tử cận kề, nhưng tuyệt đối an toàn, đảm bảo bí mật, đường dây thông suốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao suốt từ năm 1962 đến ngày toàn thắng. Trong đó, đóng góp của H63 vào mục tiêu chiến lược là đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ trong sự kiện tết Mậu Thân 1968 về mặt thông tin tình báo có ý nghĩa rất quan trọng.

Đại tá, Anh hùng LLVT Nhân dân Nguyễn Văn Tàu vẫn miệt mài sống đẹp, sống có ích, sống cống hiến dù đã ở tuổi 97. (Ông Tư Cang tham dự buổi giáo dục truyền thống về nguồn của Tỉnh đoàn Cà Mau về căn cứ Củ Chi)

Đại tá, Anh hùng LLVT Nhân dân Nguyễn Văn Tàu vẫn miệt mài sống đẹp, sống có ích, sống cống hiến dù đã ở tuổi 97. (Ông Tư Cang tham dự buổi giáo dục truyền thống về nguồn của Tỉnh đoàn Cà Mau về căn cứ Củ Chi)

Tiến về giải phóng Sài Gòn

Cục diện chiến trường xoay chuyển mau lẹ theo hướng có lợi cho ta. Thời cơ giải phóng đã mở toang. Ðang ở Bắc học lớp đào tạo cán bộ cấp sư đoàn, ông Tư Cang được lệnh về Nam nhận nhiệm vụ làm Chính uỷ Lữ đoàn đặc công biệt động 316 vào cuối tháng 4/1975.

Lữ đoàn đặc công biệt động 316 dưới sự chỉ huy của ông Tư Cang đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, đó là giữ được cầu Rạch Chiếc, huyết mạch cho đại quân ta tiến vào Sài Gòn từ hướng Ðông; đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu nguỵ; đánh chiếm căn cứ pháo binh, xe tăng của nguỵ; vận động quần chúng đón đại quân của ta tiến vào Sài Gòn.

Ông Tư Cang, với nụ cười hóm hỉnh, kể lại một chuyện vui ngay sát giờ toàn thắng: “Một cán bộ pháo binh của trên được giới thiệu đến gặp chúng tôi để thảo luận về các vị trí đặt pháo trong thành phố, trên các cao ốc để tiêu diệt những mục tiêu của địch còn chống cự. Tôi giở tấm bản đồ thành phố ra, chỉ rõ các mục tiêu. Ðang bàn bạc thì nhận tin chiến thắng hoả tốc: “Chính phủ Sài Gòn đầu hàng”. Trong niềm vui sướng vỡ oà, ông Tư Cang quay sang nói với đồng chí pháo binh: “Thôi, khỏi cần đặt pháo nữa nghen đồng chí. Toàn thắng rồi!”.

Trong thời khắc trọng đại ấy, ông Tư Cang mừng vì giải phóng mà Sài Gòn vẫn còn nguyên vẹn. Ông về gặp lại vợ, con gái sau gần 30 năm xa cách. Ðứa con gái hồi ông đi còn nằm trong bụng mẹ, nay 28 tuổi, có chồng, có con. Cháu ngoại của ông đang ngủ, thức dậy, chào ông Tư theo sự hướng dẫn của người lớn: “Con trình ông ngoại. Con mừng ông ngoại đã về với bà ngoại”.

Nước mắt ngày gặp mặt dâng trào thổn thức giữa mùa xuân đại thắng...

Giá trị thiêng liêng của hoà bình, thống nhất

Cuộc đời của ông Tư Cang gắn liền với những thời khắc trọng đại của lịch sử dân tộc, từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho đến ngày toàn thắng 1975, trải dài sang những trận đánh ác liệt ở chiến tranh biên giới Tây Nam. Ông Tư không một ngày ngơi nghỉ để sống đẹp, sống có ích, sống cống hiến dù rằng ông đã được về hưu từ năm 1980 và là thương binh 2/4, mất 61% sức khoẻ.

Gần một thế kỷ cuộc đời, ông Tư Cang đã thấu tỏ một chân lý, ơn Ðảng, ơn Bác Hồ và giá trị của hoà bình, độc lập, thống nhất lớn lao lắm, thiêng liêng lắm. Ông tâm tình: “Mối nhục mất nước, lớp lớp những con người trong thời đại Hồ Chí Minh đã dùng xương máu để rửa sạch làu rồi. Nhưng còn một mối lo, phải lo, là làm sao nước ta phát triển để sánh vai với các cường quốc năm châu như tâm nguyện của Bác Hồ. Cái này trách nhiệm là của các bạn, thế hệ trẻ Việt Nam”.

Trọng trách của thế hệ trẻ, theo ông Tư Cang là rất lớn. Nhưng việc đầu tiên là phải học tập. Học tri thức, học làm người, làm chủ khoa học - kỹ thuật, công nghệ số để thế hệ trẻ có thể gánh vác trọng trách bảo vệ, xây dựng, phát triển đất nước trong bối cảnh mới. Ông tin tưởng tuyệt đối vào thế hệ trẻ, bởi dân tộc ta, đất nước ta: “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt thời nào cũng có” (Cáo Bình Ngô - Nguyễn Trãi).

Ông Tư Cang dẫn lại câu nói của cố Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng với sự tự hào trào dâng: “Ðất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Ông nói, đất nước Việt Nam bây giờ trên thế giới ai cũng biết tới là một đất nước văn hiến, một dân tộc anh hùng, một xã hội phát triển.

Rồi ông tâm đắc: “Ðồng chí Tổng bí thư Tô Lâm của Ðảng ta đang thổi một luồng gió mới, một kỷ nguyên mới cho đất nước. Việt Nam có chính sách miễn học phí rồi, dự tính tiến tới miễn phí khám chữa bệnh, thêm các mặt phúc lợi, an sinh chăm lo cho người dân, nhất là người có công với cách mạng đang ngày càng tốt thêm. Những cái đó đều là sự nối tiếp, nhân lên từ giá trị của hoà bình, thống nhất, thể hiện bản chất nhân văn, ưu việt của Ðảng ta, chế độ ta”.

Nhớ tới đồng đội, đồng chí, đồng bào đã không may mắn nhìn thấy ngày đất nước thanh bình, ông Tư càng thấm thía giá trị của hoà bình. Ông Tư chậm rãi từng lời: “Hoà bình, thống nhất được đổi bằng máu xương, bằng sự hy sinh của cha ông, điều thiêng liêng này các bạn trẻ phải khắc cốt ghi tâm. Thế hệ hôm nay phải gìn giữ từng tấc đất của Tổ quốc”.


Khó có thể nói hết về ông Tư Cang nếu chỉ gãy gọn trong một bài viết. Chúng tôi, những người con của vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc - Cà Mau, xin mượn lời của người đứng đầu Ðảng bộ tỉnh Cà Mau, đồng chí Nguyễn Hồ Hải, Bí thư Tỉnh uỷ, cũng là người con của vùng đất thép Củ Chi, để vinh danh ông - người anh hùng của những anh hùng: “Trên khắp thế giới này, chỉ duy nhất ở nước ta, những cán bộ, chiến sĩ tình báo có thể tạo nên những chiến công lừng lẫy, kỳ diệu trong bối cảnh hết sức khó khăn, gian khổ, hiểm nguy như thế. Bác Tư Cang là một huyền thoại, nhân chứng lịch sử kể lại cho hậu thế nghe những câu chuyện ấy, hiểu thấu đáo về giá trị cao đẹp, thiêng liêng của hoà bình, độc lập, thống nhất. Ðối với chúng ta, đó là sự may mắn, niềm hạnh phúc và cả sự tự hào lớn lao”.


Bút ký Phạm Hải Nguyên

 

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.