ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 9-5-25 16:14:37
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bảo vệ môi trường biển - Bài 2: Nguy cơ và thách thức

Báo Cà Mau Dù đã có nhiều giải pháp được triển khai, nhưng nhìn tổng thể, công tác bảo vệ môi trường biển và hải đảo tại Cà Mau vẫn còn nhiều khó khăn. Nhiều nguy cơ tiềm ẩn chưa được xử lý triệt để, ý thức bảo vệ môi trường của người dân vùng ven biển hạn chế. Thêm vào đó là nguồn lực cho hoạt động này được đánh giá là chưa cân xứng với thực tế cần triển khai, nên phần nào ảnh hưởng đến tính hiệu quả của công tác.

Tiềm ẩn nhiều nỗi lo

Theo Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Cà Mau, trên địa bàn tỉnh có 1 cơ sở khai thác dầu khí nằm ở khu vực ngoài khơi Cà Mau, thuộc Tổng Công ty Thăm dò khai thác dầu khí, với lượng nước thải sản xuất khoảng 3.000 m3/ngày đêm, việc xả thải của đơn vị này khó kiểm soát do nằm ở ngoài khơi. Các phương tiện khai thác thuỷ sản xả thải dầu nhớt, bọc ni lông, sản phẩm phụ, ngư cụ đã qua sử dụng... trực tiếp trên biển, khai thác khu vực ven bờ làm ảnh hưởng đến môi trường biển. Ngoài ra, lượng lớn rác thải từ biển trôi dạt vào bờ biển, các khu rừng ngập mặn, vườn quốc gia… nhưng do thiếu nguồn lực thu gom, vận chuyển, xử lý, gây ảnh hưởng đến môi trường, hệ sinh thái khu vực ven biển của tỉnh.

Đối với các nguồn thải từ đất liền, ven biển, hiện trạng môi trường nước vùng ven biển vẫn đang an toàn. Tuy nhiên, chất lượng môi trường nước biển ven bờ có dấu hiệu ô nhiễm cục bộ và tức thời. Điều này cho thấy, tình trạng xả thải từ nội địa (chủ yếu là chất thải nuôi thuỷ sản, chế biến thuỷ sản, sinh hoạt đô thị và dân cư tập trung) vẫn chưa được kiểm soát tốt.

Cùng với đó, nguồn thải từ các hoạt động nuôi thuỷ sản, các cơ sở sản xuất nhỏ, lẻ, khu vực không có hệ thống xử lý nước thải tập trung tại các cửa sông, ven biển khó kiểm soát việc xả nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt yêu cầu gây ô nhiễm môi trường vùng biển ven bờ.

Tại thị trấn Cái Đôi Vàm, người dân sinh sống bằng nghề khai thác, nuôi, chế biến thuỷ sản và mua bán kinh doanh. Do nhận thức của một bộ phận người dân địa phương còn hạn chế nên tác động tiêu cực đến môi trường, trong đó có môi trường biển.

Tại một số khu đô thị tập trung ven biển chưa có phương tiện thu gom rác thải sinh hoạt, nên người dân vứt rác bừa bãi, đến nay hình thành những bãi rác tự phát với khối lượng lớn nằm dưới các ao tù, nước đọng, gây ô nhiễm môi trường sống của người dân khu vực. Tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển, ven biển trong thời gian qua rất đáng lo ngại, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hệ sinh thái ven biển, đặc biệt là khu vực rừng phòng hộ.

Thị trấn Cái Đôi Vàm, huyện Phú Tân có diện tích tự nhiên 2.257,28 ha, dân số 3.498 hộ (14.362 khẩu), có bờ biển dài 4,8 km. Thị trấn có tổng số tàu khai thác biển 232 chiếc, diện tích đất sản xuất hiện nay là 1.614 ha, đa số người dân trên địa bàn thị trấn sinh sống bằng nghề khai thác, nuôi, chế biến thuỷ sản và mua bán kinh doanh. Theo đánh giá của chính quyền sở tại, lợi thế phát triển kinh tế từ biển là không thể phủ nhận, nhưng hiện tại địa phương cũng đứng trước vấn đề khó xử lý triệt để, là ô nhiễm môi trường. Dù thực tế địa phương cũng đã có nhiều nỗ lực trong công tác này, nhưng kết quả vẫn chưa thật sự đạt như kỳ vọng. Nguyên nhân được nhìn nhận là do hiện nay một số hộ dân chưa có ý thức trong việc bảo vệ môi trường nói chung và môi trường biển nói riêng, thường xuyên vứt rác thải xuống sông, kênh rạch và ven biển. Nguyên nhân đa phần các hộ dân sống theo kênh rạch, một số cơ sở thu mua thuỷ sản, sửa chữa động cơ thuỷ chưa đảm bảo việc thu gom chất thải, nước thải. Một số hộ dân nuôi tôm siêu thâm canh xả thải vào ban đêm khiến công tác bảo vệ môi trường của thị trấn gặp nhiều khó khăn…

Ông Nguyễn Đình Triểu, Phó chủ tịch UBND thị trấn Sông Đốc, cho biết: "Sông Đốc là thị trấn biển lớn và sầm uất bậc nhất tại tỉnh Cà Mau, với hơn 7.900 hộ (hơn 32.800 khẩu, có từ 15-20 ngàn khẩu tạm trú). Trên địa bàn có 13.590 phương tiện khai thác biển, hơn 2 ngàn cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Thực tế cho thấy, từ nhiều năm qua nơi đây là một trong những địa điểm khá nhạy cảm về ô nhiễm môi trường. Mặc dù địa phương đã triển khai nhiều giải pháp, nhưng vẫn chưa xử lý hết tình trạng ô nhiễm môi trường. Từ việc rác thải ở khu vực nội địa chưa được quan tâm xử lý triệt để nên ảnh hưởng tiêu cực đến tính hiệu quả của công tác bảo vệ môi trường tại địa phương.

Tại nhiều địa phương ven biển, nhà ở ven sông, kênh, rạch khá phổ biến, kéo theo tình trạng xả rác thải sinh hoạt trực tiếp xuống sông, ven biển, gây ra tình trạng ô nhiễm hiện nay.

Nhận diện khó khăn

Công tác quản lý, bảo vệ môi trường biển, đảo thời gian qua được Đảng và Nhà nước quan tâm chú trọng, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong thực hiện chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. 

Ông Hồ Song Toàn, Phó chủ tịch UBND huyện Trần Văn Thời, cho biết: "Thời gian qua, địa phương luôn quan tâm phát triển kinh tế biển, từ việc đầu tư đến mời gọi đầu tư. Tuy nhiên, khó khăn cần nhìn nhận là vấn đề ô nhiễm đi kèm sự phát triển. Khó khăn đặt ra trong vấn đề này là ý thức chấp hành Luật Bảo vệ môi trường của một bộ phận Nhân dân còn hạn chế, chưa tự giác chấp hành, chưa ý thức về nguy hại của việc xả thải vào nguồn nước. Cùng với đó là kinh phí để phục vụ các hoạt động bảo vệ môi trường biển còn hạn chế, không có trang thiết bị phục vụ công tác kiểm tra, phát hiện, xử lý kịp thời các hoạt động gây ô nhiễm môi trường trên biển. Hiện tại, huyện chưa được đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt tập trung tại các đô thị, khu dân cư tập trung".

Ông Đỗ Quang Hưng, Phó giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, cho rằng: "Hiện quy hoạch không gian biển quốc gia; quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ Trung ương chưa ban hành nên địa phương chưa có cơ sở xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng biển cấp tỉnh, ảnh hưởng đến công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển. Đây cũng là khó khăn lớn trong công tác bảo vệ môi trường thời gian qua".

Ông Hưng cho biết thêm, thời gian qua chỉ quan trắc môi trường nước mặt, nước ngầm, nước mưa, nước biển ven bờ và không khí, mật độ mẫu quan trắc còn thấp, nhất là nước mặt, chưa thực hiện quan trắc phân bố theo từng khu vực sinh thái; chưa tổ chức định kỳ quan trắc, đánh giá đa dạng sinh học của các khu vực biển và hải đảo; điều tra, thống kê, phân loại, đánh giá các nguồn thải từ đất liền, từ các hoạt động trên biển và hải đảo được thực hiện nhưng chưa đầy đủ, thông tin, dữ liệu lạc hậu, còn thiếu nhiều nguồn thải, đặc biệt là rác thải nhựa.

Thực tế cho thấy, nhiều hoạt động gây ảnh hưởng đến môi trường nhưng chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu, như chất thải từ hoạt động của các loại tàu trên sông, biển là nguyên nhân ô nhiễm dầu tại các tuyến sông và cảng biển. Các cơ sở sản xuất, chế biến nằm xen kẽ khu dân cư ven biển, khu công nghiệp tập trung chưa có hạ tầng bảo vệ môi trường (cụm công nghiệp Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời tập trung nhiều cơ sở sản xuất, chế biến bột cá ven biển nhưng chưa được đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung), nên việc kiểm soát ô nhiễm môi trường gặp không ít khó khăn, khó áp dụng các biện pháp bảo vệ môi trường đồng bộ; công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện bảo vệ môi trường vùng ven biển chưa được thực hiện thường xuyên do không đủ lực lượng, phương tiện để kiểm soát trên biển.

Thị trấn Sông Đốc từ lâu là địa phương nhạy cảm với ô nhiễm, dù tình trạng này có phần giảm hơn so với trước đây nhưng vẫn chưa được giải quyết triệt để.

Không chỉ dừng ở đó, qua phân tích của ngành tài nguyên và môi trường địa phương cho thấy, công tác quản lý, kiểm soát môi trường biển, đảo còn gặp một số khó khăn, một số nhiệm vụ kiểm soát môi trường biển và hải đảo chưa được triển khai thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ. Hiện trạng rác thải vùng ven biển tỉnh Cà Mau chưa được điều tra, thống kê; công tác quản lý rác thải nhựa đại dương hiện nay chủ yếu tập trung vào tuyên tuyền, việc phân loại, thu gom, xử lý còn hạn chế.

Năng lực dự báo, cảnh báo, có phương án thích ứng với biến đổi khí hậu, triều cường, khắc phục tình trạng sạt lở bờ biển còn hạn chế. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác thông tin tuyên truyền, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển được đầu tư còn hạn chế, nhất là các thiết bị chuyên dùng phục vụ cho việc kiểm soát môi trường biển.

“Hiện nay, các xã, thị trấn ven biển do không thuận tiện giao thông, cũng như chưa được đầu tư xây dựng bãi chôn lấp rác thải sinh hoạt hợp vệ sinh, nên lượng rác thải phát sinh của hộ gia đình, cá nhân được hướng dẫn phân loại và xử lý tại chỗ bằng biện pháp ủ phân hoặc đốt. Ở các khu dân cư tại các cửa sông, ven biển, người dân chưa thực hiện tốt công tác thu gom và xử lý rác thải (do nhà ở ven sông), tình trạng người dân đổ rác xuống sông vẫn còn xảy ra. Đây cũng là nguyên nhân tồn tại tác động tiêu cực đến môi trường biển trong thời gian qua”, ông Đỗ Quang Hưng cho biết./.

 

Văn Đum

Bài 3: Cần đồng bộ giải pháp và nguồn lực

 

Cà Mau - Ðịa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài cuối: Bừng sáng vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc

Cà Mau hôm nay đổi mới, phát triển từng ngày. Những cán bộ lão thành cách mạng, những bậc cao niên ở Cà Mau mà chúng tôi có dịp gặp, đã trải qua bom đạn chiến tranh, trải qua những ngày tháng Cà Mau còn đầy khó khăn, tất cả đều nói rằng, Cà Mau mình bây giờ đã phát triển nhiều lắm, đời sống Nhân dân đã sung túc hơn trước bội phần. Từ vùng đất hoang vu, nê địa; từ những đau thương, mất mát lớn lao trong kháng chiến; đến nay, Cà Mau đã vươn mình đi lên bằng sức vóc mới, thế và lực mới, để chặng đường phát triển tương lai sẽ làm bừng sáng vùng đất địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.

Cà Mau - địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 4: Vùng đất của những sản vật vang danh

Dù lên rừng hay xuống biển, Cà Mau đều sẵn có những đặc sản trứ danh. Nếu chỉ nhắc đến đại khái, nhiều người sẽ chưa thoả dạ hoặc lòng còn hoài nghi, thắc mắc. Sự trù phú của thiên nhiên hoà quyện với quá trình lao động siêng năng, bền bĩ, đúc kết kinh nghiệm và sự sáng tạo tài hoa của lớp lớp con người Cà Mau đã kết tụ nên giá trị và sức sống lâu bền của những sản vật đặc trưng ở vùng đất mới.

Lưu Hữu Phước – Nhạc sĩ tài danh đất Tây Đô

Hai ba thế hệ người Việt Nam hát những ca khúc của nhạc sĩ tài danh Lưu Hữu Phước. Không có cuộc đời nào, tâm hồn nào trên đất nước Việt Nam thân yêu thế kỷ vệ quốc anh hùng mà không được Lưu Hữu Phước giục giã.

Ngày giải phóng Cà Mau

Cà Mau - địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 3: Bức tranh văn hoá đa sắc

Dù ở vùng đất mới, gốc gác khác biệt, song khi về tới Cà Mau, thế hệ tiền nhân đã sớm ý thức về nguồn cội, quần tụ và cố kết với nhau bằng sợi chỉ đỏ chảy xuyên suốt của nền văn hoá dân tộc Việt Nam bốn ngàn năm: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi/Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”.

Cà Mau - Địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 2: Con người Cà Mau - Nét duyên xứ sở

Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng: “Con người là chủ thể văn hoá, cách ứng xử của con người với chính mình, với thiên nhiên và các mối quan hệ xã hội định hình nên đặc điểm và tính cách của nền văn hoá ấy”. Ở vùng đất mới Cà Mau, nếu không nói về con người Cà Mau, tính cách và cốt cách của con người Cà Mau thì quả thật là một điều thiếu sót lớn. Hồn cốt quê hương, khí phách của ông cha là nơi hậu thế soi chiếu vào đó để nhận diện được chính mình và khơi mở những chặng đường tương lai của mảnh đất này.

Cà Mau - Địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc

Khi Báo Cà Mau đăng loạt ghi chép pha chút hơi hướng khảo cứu này, tỉnh Cà Mau đang hừng hực khí thế, với thế và lực mới vững vàng hoà vào dòng chảy thời đại cùng cả dân tộc, đất nước Việt Nam tiến bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển phồn thịnh, giàu mạnh, hạnh phúc.

Dì tôi - Người đàn bà đi qua hai cuộc kháng chiến

Trước đây không lâu, Báo Cà Mau có đăng bài viết về chuyện bà Hai Ðầm tham gia trận diệt đồn Tân Bằng năm 1946. Trong trận đánh táo bạo này, bà được Chi bộ Thới Bình cài vào đồn giặc Pháp làm nội gián để cùng bộ đội ta thực hiện phương án “nội công ngoại kích”. Bài viết theo lời kể của ông Huỳnh Văn Tứ ở thị trấn Thới Bình, người cùng thế hệ và có mối quan hệ thân tộc với bà Hai Ðầm.

Giáo dục rộng mở khi tư duy đổi chiều - Bài cuối: Ðổi mới phương pháp dạy và học

Việc Bộ Giáo dục và Ðào tạo (GD&ÐT) siết chặt quản lý dạy thêm, học thêm theo Thông tư số 29/2024/TT-BGDÐT quy định về dạy thêm, học thêm (Thông tư 29) đã nhận được sự đồng thuận của xã hội. Bởi chính phụ huynh, học sinh và cả các thầy cô giáo nhận ra đã đến lúc cần thay đổi tư duy giáo dục theo hướng mở.

Giáo dục rộng mở khi tư duy đổi chiều - Bài 2: Chia nhau trách nhiệm

Ðể siết chặt vấn đề dạy thêm - học thêm, nếu chỉ dựa vào nỗ lực của ngành giáo dục là chưa đủ, mà còn đòi hỏi sự nhìn nhận đúng và sự giám sát của phụ huynh, của xã hội.