ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 21-11-24 21:23:30
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bảo vệ môi trường biển - Bài 2: Nguy cơ và thách thức

Báo Cà Mau Dù đã có nhiều giải pháp được triển khai, nhưng nhìn tổng thể, công tác bảo vệ môi trường biển và hải đảo tại Cà Mau vẫn còn nhiều khó khăn. Nhiều nguy cơ tiềm ẩn chưa được xử lý triệt để, ý thức bảo vệ môi trường của người dân vùng ven biển hạn chế. Thêm vào đó là nguồn lực cho hoạt động này được đánh giá là chưa cân xứng với thực tế cần triển khai, nên phần nào ảnh hưởng đến tính hiệu quả của công tác.

Tiềm ẩn nhiều nỗi lo

Theo Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Cà Mau, trên địa bàn tỉnh có 1 cơ sở khai thác dầu khí nằm ở khu vực ngoài khơi Cà Mau, thuộc Tổng Công ty Thăm dò khai thác dầu khí, với lượng nước thải sản xuất khoảng 3.000 m3/ngày đêm, việc xả thải của đơn vị này khó kiểm soát do nằm ở ngoài khơi. Các phương tiện khai thác thuỷ sản xả thải dầu nhớt, bọc ni lông, sản phẩm phụ, ngư cụ đã qua sử dụng... trực tiếp trên biển, khai thác khu vực ven bờ làm ảnh hưởng đến môi trường biển. Ngoài ra, lượng lớn rác thải từ biển trôi dạt vào bờ biển, các khu rừng ngập mặn, vườn quốc gia… nhưng do thiếu nguồn lực thu gom, vận chuyển, xử lý, gây ảnh hưởng đến môi trường, hệ sinh thái khu vực ven biển của tỉnh.

Đối với các nguồn thải từ đất liền, ven biển, hiện trạng môi trường nước vùng ven biển vẫn đang an toàn. Tuy nhiên, chất lượng môi trường nước biển ven bờ có dấu hiệu ô nhiễm cục bộ và tức thời. Điều này cho thấy, tình trạng xả thải từ nội địa (chủ yếu là chất thải nuôi thuỷ sản, chế biến thuỷ sản, sinh hoạt đô thị và dân cư tập trung) vẫn chưa được kiểm soát tốt.

Cùng với đó, nguồn thải từ các hoạt động nuôi thuỷ sản, các cơ sở sản xuất nhỏ, lẻ, khu vực không có hệ thống xử lý nước thải tập trung tại các cửa sông, ven biển khó kiểm soát việc xả nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt yêu cầu gây ô nhiễm môi trường vùng biển ven bờ.

Tại thị trấn Cái Đôi Vàm, người dân sinh sống bằng nghề khai thác, nuôi, chế biến thuỷ sản và mua bán kinh doanh. Do nhận thức của một bộ phận người dân địa phương còn hạn chế nên tác động tiêu cực đến môi trường, trong đó có môi trường biển.

Tại một số khu đô thị tập trung ven biển chưa có phương tiện thu gom rác thải sinh hoạt, nên người dân vứt rác bừa bãi, đến nay hình thành những bãi rác tự phát với khối lượng lớn nằm dưới các ao tù, nước đọng, gây ô nhiễm môi trường sống của người dân khu vực. Tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển, ven biển trong thời gian qua rất đáng lo ngại, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hệ sinh thái ven biển, đặc biệt là khu vực rừng phòng hộ.

Thị trấn Cái Đôi Vàm, huyện Phú Tân có diện tích tự nhiên 2.257,28 ha, dân số 3.498 hộ (14.362 khẩu), có bờ biển dài 4,8 km. Thị trấn có tổng số tàu khai thác biển 232 chiếc, diện tích đất sản xuất hiện nay là 1.614 ha, đa số người dân trên địa bàn thị trấn sinh sống bằng nghề khai thác, nuôi, chế biến thuỷ sản và mua bán kinh doanh. Theo đánh giá của chính quyền sở tại, lợi thế phát triển kinh tế từ biển là không thể phủ nhận, nhưng hiện tại địa phương cũng đứng trước vấn đề khó xử lý triệt để, là ô nhiễm môi trường. Dù thực tế địa phương cũng đã có nhiều nỗ lực trong công tác này, nhưng kết quả vẫn chưa thật sự đạt như kỳ vọng. Nguyên nhân được nhìn nhận là do hiện nay một số hộ dân chưa có ý thức trong việc bảo vệ môi trường nói chung và môi trường biển nói riêng, thường xuyên vứt rác thải xuống sông, kênh rạch và ven biển. Nguyên nhân đa phần các hộ dân sống theo kênh rạch, một số cơ sở thu mua thuỷ sản, sửa chữa động cơ thuỷ chưa đảm bảo việc thu gom chất thải, nước thải. Một số hộ dân nuôi tôm siêu thâm canh xả thải vào ban đêm khiến công tác bảo vệ môi trường của thị trấn gặp nhiều khó khăn…

Ông Nguyễn Đình Triểu, Phó chủ tịch UBND thị trấn Sông Đốc, cho biết: "Sông Đốc là thị trấn biển lớn và sầm uất bậc nhất tại tỉnh Cà Mau, với hơn 7.900 hộ (hơn 32.800 khẩu, có từ 15-20 ngàn khẩu tạm trú). Trên địa bàn có 13.590 phương tiện khai thác biển, hơn 2 ngàn cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Thực tế cho thấy, từ nhiều năm qua nơi đây là một trong những địa điểm khá nhạy cảm về ô nhiễm môi trường. Mặc dù địa phương đã triển khai nhiều giải pháp, nhưng vẫn chưa xử lý hết tình trạng ô nhiễm môi trường. Từ việc rác thải ở khu vực nội địa chưa được quan tâm xử lý triệt để nên ảnh hưởng tiêu cực đến tính hiệu quả của công tác bảo vệ môi trường tại địa phương.

Tại nhiều địa phương ven biển, nhà ở ven sông, kênh, rạch khá phổ biến, kéo theo tình trạng xả rác thải sinh hoạt trực tiếp xuống sông, ven biển, gây ra tình trạng ô nhiễm hiện nay.

Nhận diện khó khăn

Công tác quản lý, bảo vệ môi trường biển, đảo thời gian qua được Đảng và Nhà nước quan tâm chú trọng, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong thực hiện chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. 

Ông Hồ Song Toàn, Phó chủ tịch UBND huyện Trần Văn Thời, cho biết: "Thời gian qua, địa phương luôn quan tâm phát triển kinh tế biển, từ việc đầu tư đến mời gọi đầu tư. Tuy nhiên, khó khăn cần nhìn nhận là vấn đề ô nhiễm đi kèm sự phát triển. Khó khăn đặt ra trong vấn đề này là ý thức chấp hành Luật Bảo vệ môi trường của một bộ phận Nhân dân còn hạn chế, chưa tự giác chấp hành, chưa ý thức về nguy hại của việc xả thải vào nguồn nước. Cùng với đó là kinh phí để phục vụ các hoạt động bảo vệ môi trường biển còn hạn chế, không có trang thiết bị phục vụ công tác kiểm tra, phát hiện, xử lý kịp thời các hoạt động gây ô nhiễm môi trường trên biển. Hiện tại, huyện chưa được đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt tập trung tại các đô thị, khu dân cư tập trung".

Ông Đỗ Quang Hưng, Phó giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, cho rằng: "Hiện quy hoạch không gian biển quốc gia; quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ Trung ương chưa ban hành nên địa phương chưa có cơ sở xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng biển cấp tỉnh, ảnh hưởng đến công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển. Đây cũng là khó khăn lớn trong công tác bảo vệ môi trường thời gian qua".

Ông Hưng cho biết thêm, thời gian qua chỉ quan trắc môi trường nước mặt, nước ngầm, nước mưa, nước biển ven bờ và không khí, mật độ mẫu quan trắc còn thấp, nhất là nước mặt, chưa thực hiện quan trắc phân bố theo từng khu vực sinh thái; chưa tổ chức định kỳ quan trắc, đánh giá đa dạng sinh học của các khu vực biển và hải đảo; điều tra, thống kê, phân loại, đánh giá các nguồn thải từ đất liền, từ các hoạt động trên biển và hải đảo được thực hiện nhưng chưa đầy đủ, thông tin, dữ liệu lạc hậu, còn thiếu nhiều nguồn thải, đặc biệt là rác thải nhựa.

Thực tế cho thấy, nhiều hoạt động gây ảnh hưởng đến môi trường nhưng chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu, như chất thải từ hoạt động của các loại tàu trên sông, biển là nguyên nhân ô nhiễm dầu tại các tuyến sông và cảng biển. Các cơ sở sản xuất, chế biến nằm xen kẽ khu dân cư ven biển, khu công nghiệp tập trung chưa có hạ tầng bảo vệ môi trường (cụm công nghiệp Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời tập trung nhiều cơ sở sản xuất, chế biến bột cá ven biển nhưng chưa được đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung), nên việc kiểm soát ô nhiễm môi trường gặp không ít khó khăn, khó áp dụng các biện pháp bảo vệ môi trường đồng bộ; công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện bảo vệ môi trường vùng ven biển chưa được thực hiện thường xuyên do không đủ lực lượng, phương tiện để kiểm soát trên biển.

Thị trấn Sông Đốc từ lâu là địa phương nhạy cảm với ô nhiễm, dù tình trạng này có phần giảm hơn so với trước đây nhưng vẫn chưa được giải quyết triệt để.

Không chỉ dừng ở đó, qua phân tích của ngành tài nguyên và môi trường địa phương cho thấy, công tác quản lý, kiểm soát môi trường biển, đảo còn gặp một số khó khăn, một số nhiệm vụ kiểm soát môi trường biển và hải đảo chưa được triển khai thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ. Hiện trạng rác thải vùng ven biển tỉnh Cà Mau chưa được điều tra, thống kê; công tác quản lý rác thải nhựa đại dương hiện nay chủ yếu tập trung vào tuyên tuyền, việc phân loại, thu gom, xử lý còn hạn chế.

Năng lực dự báo, cảnh báo, có phương án thích ứng với biến đổi khí hậu, triều cường, khắc phục tình trạng sạt lở bờ biển còn hạn chế. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác thông tin tuyên truyền, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển được đầu tư còn hạn chế, nhất là các thiết bị chuyên dùng phục vụ cho việc kiểm soát môi trường biển.

“Hiện nay, các xã, thị trấn ven biển do không thuận tiện giao thông, cũng như chưa được đầu tư xây dựng bãi chôn lấp rác thải sinh hoạt hợp vệ sinh, nên lượng rác thải phát sinh của hộ gia đình, cá nhân được hướng dẫn phân loại và xử lý tại chỗ bằng biện pháp ủ phân hoặc đốt. Ở các khu dân cư tại các cửa sông, ven biển, người dân chưa thực hiện tốt công tác thu gom và xử lý rác thải (do nhà ở ven sông), tình trạng người dân đổ rác xuống sông vẫn còn xảy ra. Đây cũng là nguyên nhân tồn tại tác động tiêu cực đến môi trường biển trong thời gian qua”, ông Đỗ Quang Hưng cho biết./.

 

Văn Đum

Bài 3: Cần đồng bộ giải pháp và nguồn lực

 

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài cuối: Thầm lặng việc thiện nguyện

Gương mặt đôn hậu, nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi là điều dễ tạo thiện cảm với bất cứ ai khi gặp cô Phạm Thị Ngọc Thảo, giáo viên Trường Tiểu học Phường 6/2, TP Cà Mau. Nhiều năm duy trì “Tủ bánh mì yêu thương”, lặng thầm trao hàng trăm món quà thiết thực tới những hoàn cảnh kém may mắn, cô Thảo cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sẻ chia.

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài 2: Người gieo hạnh phúc

Mỗi ngày trôi qua, trên khắp quê hương Cà Mau xuất hiện nhiều tấm gương bình dị mà cao quý. Ðó là câu chuyện của người phụ nữ vượt qua nỗi đau của bản thân để dìu dắt những người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, là câu chuyện của những cựu chiến binh giàu nghĩa cử cao đẹp... Họ thầm lặng đóng góp cho đời, gieo hạt giống yêu thương, điểm tô cho cuộc sống thêm những gam màu tươi sáng.

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.