Thứ hai, 1-9-25 13:27:59
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Bây giờ mới nói

Báo Cà Mau

Minh hoạ: Minh Tấn

Minh hoạ: Minh Tấn

- Anh Út (*), anh nhớ lực lượng nào tiếp quản khi đối phương giao khu tập kết cho ta?

- Một trung đội chủ lực của Tiểu đoàn 307, lấy từ Ðại đội 933 với cán bộ chỉ huy tiểu đoàn và tổ liên hợp. Tất cả được phân công ra tiếp quản thị trấn Cà Mau, Tắc Vân, Hộ Phòng, Giá Rai và Hoà Bình (trên Quốc lộ 4). Bên ta đều trẻ tuổi (từ 18-25) khoẻ mạnh, đẹp trai, múa hát hay...

- Ðồng bào vùng tạm chiếm bấy giờ đón ta thế nào?

- Khi chúng tôi tới cầu quay Cà Mau, nhiều người, phần đông là người già và trẻ em, tò mò đến, đứng xa xa xem Việt Minh có phải như Pháp và Bảo Ðại tuyên truyền “7 người đeo không gãy tàu lá đu đủ”. Bà con thấy anh em ta đẹp và vui quá, mặc đồng phục ka-ki vàng mới tinh.

- Quân phục của cơ quan nào cấp?

- Vải của quân trang. Còn công kỹ, thức suốt đêm, may cho anh em kịp mặc ra thành, là nhờ các má, các chị em ở Cái Nhúc.

- Thủ tục giao - nhận khu tập kết thế nào, anh Út?

- Một quan ba Pháp từ Bạc Liêu tới với mấy tên tuỳ tùng, quân phục và ga-lon nghiêm chỉnh. Ðối phương cùng chúng tôi bắt tay xã giao, phiên dịch làm việc trôi chảy sau lời chào hỏi khá lịch sự. Rồi họ đưa ta lại từng công sở giao - nhận sổ sách ký tên đóng dấu. Cờ tam tài kéo xuống, cờ đỏ sao vàng kéo lên khi chiến sĩ ta bồng súng chào. Cờ ta tung bay trước gió, thắm tươi, vẫy gọi mọi người. Ta đi tới đâu, nhà nhà mở cửa chào đón tới đó. Không rõ cờ Tổ quốc được chuẩn bị bao giờ, được treo lên trên nóc, trên cửa sổ mỗi nhà như mọc từ lòng yêu nước, tràn ngập các khu phố, bến tàu, nhà lồng chợ và tiệm quán... Hôm đó là ngày 1/8/1954, 9 giờ sáng.

- Thưa anh, lúc nào ta mới rước bộ đội và đồng bào ra chợ?

- Ðúng 11 giờ ngày 21/8/1954, quân dân ta từ năm ngã sông đổ ra Cà Mau... Người, băng cờ, khẩu hiệu, ống loa... rợp trời thị trấn Cà Mau và nhiều nơi khác trong khu vực quy định tập kết. Tôi không nhớ hết và không nói hết cảm xúc trào dâng của mình bấy giờ. Mỗi ánh mắt, mỗi lời tung hô hoà bình, chúc thọ Bác... đều góp phần tạo nên một bức tranh hoành tráng một không khí khác thường, mình thấy như trời đất rộng lớn hơn.

- Giao xong, đối phương làm gì tiếp theo?

- Ba sĩ quan Pháp và trung đội bảo hoàng co ro trên xe chạy về Bạc Liêu, chúng bị mọi người quên lãng như không hề có mặt. Khi đó, cán bộ và chiến sĩ ta đến đâu quần chúng vây quanh hỏi han trò chuyện, xin bài ca. Rồi sau đó, chúng tôi được điều về Ðội Cảnh vệ Bộ Tư lệnh miền Tây, ra Phụng Hiệp bảo vệ đồng chí Phạm Hùng, Trưởng ban Liên hợp Nam Bộ.

- Thời điểm tập kết, anh Út có chuyện gì đáng nhớ nhất?

- Có. Ðó là chuyến tàu thứ hai, trung đội tôi được lệnh đi công tác Vũng Tàu, lên tàu Strasvobol (của Liên Xô), nhiệm vụ của chúng tôi là đón đoàn cán bộ y tế từ miền Bắc vô, gồm 9 đồng chí, trong đó có một bác sĩ người cao, da đen: “Bác sĩ Lê Ba”. Ông này rất bí mật. Khi xuống tàu LCM một ngày đêm về Chắc Băng, ít giao tiếp với ai. Ba người ngồi kế ông là cảnh vệ chúng tôi, bí mật che chắn không cho các nhà báo nước ngoài tiếp cận ông phỏng vấn. Khi về đến doanh trại ta ở Chắc Băng, các anh chỉ huy ra mừng đón, chúng tôi mới vỡ lẽ “Bác sĩ Lê Ba” chính là đồng chí Lê Duẩn của chúng ta!

Ðồng chí Lê Duẩn về Chắc Băng, chủ trì hội nghị đầu tiên của Xứ uỷ Nam Bộ, chỉ đạo cuộc tập kết lịch sử. Ðồng chí được hội nghị cử làm Bí thư Xứ uỷ. Sau chuyến tàu thứ ba, đồng chí Lê Duẩn cùng Xứ uỷ chỉ đạo nên chuyển quân xuống bến sông Ông Ðốc tiện hơn cho ta (để ta chuyển súng đạn từ Bắc vào Nam, rút cán bộ vừa lên tàu trở xuống, ở lại chiến đấu... thuận lợi hơn những bến khác).

Còn phía Pháp, họ sợ tuyến Cần Thơ - Vũng Tàu, lúc xuyên qua tuyến sông và kênh xáng liên tỉnh, đồng bào ra tận tàu chào mừng và tiễn đưa bộ đội ta, nên họ cũng đồng ý với đề nghị của ta chọn bến sông Ông Ðốc tàu cập bến rước quân tập kết.

-  Thủ tục kiểm soát thế nào, anh Út còn nhớ không?

-  Mình xuống tàu thì đối phương cùng Uỷ ban Liên hợp kiểm soát, có Uỷ hội Quốc tế giám sát. Chúng nó quay phim, chụp hình và đếm quân số, vũ khí của ta đưa xuống tàu là bao nhiêu. Khi xuống bến sông Ông Ðốc, chúng làm việc này khó hơn tuyến sông Cần Thơ, vì bờ biển quá rộng.

-  Những cán bộ ngoài Bắc đưa vào Nam, đều học cách ăn mặc và sinh hoạt theo Nam Bộ. Có đồng chí được tập huấn ngắn ngày từ Liên Xô mới về nước, có lịnh đi vào Nam ngay. Chúng tôi, tổ cảnh vệ phải đưa các anh chị này ra Cà Mau, Giá Rai... cho quen giao tiếp, rồi nhận nghị quyết đi các tỉnh hoặc Sài Gòn. Mỗi đồng chí trong đoàn cán bộ này đều có thể họ đạo Thiên Chúa ở Bùi Chu, hoặc nơi nào đó ở miền Bắc, đi cử vào Nam, tiền bạc mang theo đủ sống 6 tháng để thâm nhập vào miền Nam. Các anh chị học cao, trẻ đẹp (tuổi từ 25-30) hoàn toàn bỡ ngỡ với miền Nam, nên phải học thuộc tín hiệu (**). Anh Nguyễn Xuyến, Tham mưu phó Quân khu 9, giao nhiệm vụ xong, điều số cán bộ chi viện này đi các tỉnh Nam Bộ... chỉ còn 2 người ở lại thị tứ sông Ông Ðốc để mở trường dạy học (sửa doanh trại dừng quân của ta lúc tập kết làm trường tiểu học đầu tiên ở thị tứ sông Ông Ðốc).

- Theo anh Út nhớ, chuyến tàu cuối cùng của ta xuất phát thế nào?

- Ðồng chí Nguyễn Chánh, Tham mưu trưởng Quân khu miền Tây, Trưởng ban Liên lạc khu tập kết 200 ngày, ra sân lễ đọc lời tạm biệt đồng bào. Anh cảm động đọc không được, anh Nguyễn Văn Tiên, nguyên Chính trị viên Tiểu đoàn 307, bấy giờ là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1, đứng ra đọc tiếp, hứa với đồng bào 2 năm trở về, lại cũng xúc động đọc đứt quãng. Hai chiến sĩ cảnh vệ kéo cờ ta xuống để xếp lại mang đi. Mấy hàng chiến sĩ bồng súng dàn chào như tượng thần, lặng lẽ. Chúng tôi cùng đồng bào mặc niệm vong linh các chiến sĩ anh hùng và đồng bào tử nạn vì chiến tranh. Ðồng bào hai bên chợ im lặng nhìn cảnh quân dân ly biệt. Các chị bưng nước hột é và si rô cho bộ đội uống...

Ðúng 18 giờ ngày 10/2/1955, tiếng loa phát thanh từ tàu Ba Lan vang lên, chào tạm biệt đồng bào miền Nam, chào quê hương kiên cường chiến đấu cho ngày thống nhất 2 miền. Tất cả im lặng nhìn lên bờ trong 2 phút theo lệnh đồng chí Nguyễn Văn Tiên. Tàu kéo còi 3 hồi dài rồi phát máy, rung rung chuyển mình vượt sóng ra hướng Bắc...

(*) Thiếu tá Lâm Phú Hữu, hội viên Hội Cựu chiến binh tỉnh Cà Mau.

(**) Tín hiệu mật giao của Ban Tổ chức Trung ương. Nhờ tín hiệu, khi ổn định chỗ ở, người mới tới mới được liên hệ cơ sở cách mạng, nối sinh hoạt.

 

Nguyễn Bá

 

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.

Những chi bộ đảng đầu tiên ở Cà Mau

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với con đường kiên định: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.