ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 22-8-25 08:55:01
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bến Dựa một lần về

Báo Cà Mau Bến Dựa chỉ là một đoạn sông ngắn, hằng ngày cần mẫn làm người trung chuyển đưa nước lớn về ngã ba Cái Đuốc, ngọn Cái Ngay; tiễn nước ròng ra Cái Nháp, đổ ra ngã ba Tam Giang, xuôi về biển cả. Khu rừng bên bờ Đông Bến Dựa nơi cơ quan Huyện uỷ Tư Kháng (Đầm Dơi ngày nay), làng rừng Huỳnh Ngọc Điệp tồn tại.

Được tháp tùng với Ðoàn Cựu chiến binh Tiểu đoàn U Minh 1 về Bến Dựa, trong tôi chẳng những phấn khích bởi tượng bia tưởng niệm chiến thắng Bến Dựa vừa mới hoàn thành, ghi dấu một đơn vị quân đội non trẻ và những người con anh hùng đã làm nên chiến công đầu, chói lọi; Bến Dựa còn lưu giữ quá nhiều kỷ niệm trong tôi hơn 65 năm về trước.

Trưởng ban Liên lạc Cựu chiến binh Tiểu đoàn U Minh 1 Nguyễn Minh Phúc; Trần Hà Thanh, nguyên Tham mưu trưởng Tiểu đoàn; Ðặng Thành Long, nguyên Ðại đội trưởng Ðại đội 1002, mà tiền thân là Tiểu đoàn Ngô Văn Sở và một số cụ khác tuổi đã ngoài U80, U90 chầm chậm leo lên các bậc thềm, mắt đăm đăm nhìn lên những dòng chữ trên bia tượng, không nén được xúc động. Tại nơi này, cách đây 65 năm, đơn vị của các anh đã làm nên chiến thắng vang dội. Và, dọc theo bãi mắm này, 6 đồng đội của họ đã anh dũng hy sinh trong buổi sáng đó. Máu của họ đã hoà vào đất, những tấm bia ghi tên họ các anh rải rác ở các nghĩa trang, những người vợ, người con của họ không còn khóc, hồn thiêng của họ đã khắc vào những dòng chữ trên bia.

Bia tưởng niệm chiến thắng Bến Dựa. Ảnh: THANH MỘNG

Bia tưởng niệm chiến thắng Bến Dựa. Ảnh: THANH MỘNG

Do biến đổi của địa hình và việc bố trí lại dân cư, tổ chức cơ quan hành chánh, bia tượng chiến thắng Bến Dựa được đặt cạnh cơ quan xã Hiệp Tùng, sát khu dân cư, cách trận địa ngày ấy hơn 1 km, mặt trông ra bờ sông với bãi mắm, dây cóc kèn như là một chứng thực của trận đánh 65 năm trước. Nhân ngày lễ, Tết, chính quyền địa phương tổ chức lễ viếng, Nhân dân qua lại thắp những nén nhang tỏ lòng tri ân, thương tiếc.

Hai ngày phục kích đón đoàn chài của Trần Lệ Xuân ở kênh xáng Cái Ngay, thì Ðại đội 1002 do đồng chí Sáu Nhung làm Ðại đội trưởng đã ngoặt vô Bến Dựa, chặn đánh đoàn Bác Ái - thực chất là tổ chức tuyên truyền chiến tranh tâm lý của chính quyền Ngô Ðình Diệm, trực thuộc phủ tổng thống được một đại đội thuỷ quân lục chiến và trung đội bảo an hộ tống từ Thanh Tùng về kênh xáng Cái Ngay. Ngày càn quét đánh phá dọc theo rạch Bào Dừa, tối lại địch gom dân để chiếu phim lừa mị, tôn sùng Ngô Ðình Diệm và quan thầy Mỹ, vu khống cộng sản.

6 giờ 40 phút ngày 25/3/1960, chiếc tàu gỗ chở toàn bộ quân địch lọt vào trận địa phục kích của ta, khẩu trung liên do Trung đội trưởng Nguyễn Văn Như nổ súng phát lệnh, chiếc tàu mất lái thả trôi theo dòng nước chảy siết, rồi đâm mũi lên bờ sát công sự của ta. Cuộc chiến diễn ra quyết liệt, số địch sống sót dồn ra mũi tàu để lên bờ. Ta vừa vận động bắn thẳng vào thân tàu, vừa tập trung hoả lực tiếp ứng hướng chính diện, xác địch số văng xuống sông, số la liệt trên bờ.

Do con nước ròng bỏ bãi rất sâu, từ công sự không thể phát huy được hoả lực, các chiến sĩ của ta đã đứng thẳng chĩa mũi súng xuống thân tàu nã đạn. Trung đội trưởng Phạm Công Thâu, Nguyễn Văn Như, Trung đội phó Lưu Văn Dự, Tiểu đội trưởng Trần Việt Hoa, Lâm Chí Cang, xạ thủ trung liên Chín Trương, 6 con người đã dũng cảm ngã xuống trong tư thế đó.

Ðể có những dòng chữ cô đúc trên bia, thực địa của trận đánh chi tiết đến ngàn lần, tiếng nổ, khói súng, những thân người vạch rừng truy kích địch, những ánh mắt rực lửa căm thù, động tác quỵ xuống của đồng đội, sự chống trả điên cuồng của địch... không bức phù điêu nào tả hết. Sau 30 phút chiến đấu, ta đã làm chủ trận địa, hơn 100 tên địch đền tội, bắt 51 tù binh, số sống sót luồn rừng chạy ra kênh xáng Cái Ngay chờ cứu viện. Ta thu 120 súng các loại, trong đó có 1 cối 60 ly, 12 trung liên, số còn lại Thompson, Carbin, trường tự động, 1 máy chiếu phim và nhiều quân trang quân dụng.

65 năm chiến thắng Bến Dựa, lần nữa các cựu chiến binh Tiểu đoàn U Minh 1, đơn vị 3 lần được phong tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, được dịp hồi tưởng chiến công, lắng nghe hồn thiêng đồng đội của mình, nói với các anh trách nhiệm của người đang sống. Dẫu rằng, cứ mỗi lần về Bến Dựa là có người vắng mặt, đi xa.

***

Có lẽ điểm nhấn của Bến Dựa trước đồng khởi 1960 là trại đáy của ông Sáu Tân, cư dân duy nhất ở khúc sông này. Chỉ một cái nhà ba gian lợp lá, sàn phơi trên gò đất và liếp lượm sát mé sông. Vốn tốt bụng và ở vị trí thuận lợi, gia đình ông Sáu tất nhiên là nơi cung cấp thông tin về địch, nơi nuôi chứa, san sẻ thức ăn cho làng rừng.

Là người có tầm vóc cao quắc thước, miệng rộng, tiếng nói vang vang như sấm đầu mùa, nước da đồng đen, bộ đồ bà ba ống rộng. Ông Sáu giao hết công việc hàng đáy cho các con trai, con dâu và con gái Út Ngọc, thỉnh thoảng ông mới nhúng tay vào khi cột đáy có dấu hiệu siêu vẹo, các dây chằng không đủ lực khi nước chảy xiết; ông là người chỉ huy vừa tối thượng lại vừa cao tay nghề.

Những đêm nước rong, cái đèn măng-sông thời đó là hoàng kim, tôi thu mình vụng về bên đống cá, tôm, cua, trong khi Út Ngọc, con gái út của ông Sáu và những người khác đôi tay thoăn thoắt lựa cá vào cần xé, tôm thì dồn đống xúc vô cần xé đem luộc phơi khô, những chú cua giương hai càng chống trả, vậy mà Út Ngọc bắt trói dễ như chơi.

Là con trai mới lớn, tôi bắt nhịp với việc lựa cá, bắt cua rất nhanh, hết cái thời Út Ngọc nhìn tôi trói cua mà lén cười mủm mỉm. Cũng không nhớ từ lúc nào, chị Nhàn, con dâu thứ ba ông Sáu, đẩy qua đẩy lại để tôi và Út Ngọc ngồi gần nhau. Không như ông Sáu, Út Ngọc vừa người, tóc dài chấm lưng, mắt to, miệng cười rất có duyên, chỉ giống ông Sáu ở nước da bánh mật, nước da của người con gái sông nước, lam lũ, cũng chẳng sao. Không biết các anh trong làng rừng nói với những người trong gia đình điều gì, mà mấy lần sau tôi ra trại đáy thì họ theo dõi tôi rất chặt, riêng chị Nhàn thì như mừng ra mặt. Chúng tôi vẫn ngồi kế bên nhau, nhưng nét vô tư, hồn nhiên của Út Ngọc thì như kín đáo, ý tứ hơn, chỉ mái tóc phất phơ bên hai má tròn thì không sao cất giữ được.

Ðồng khởi năm 1960, bọn tề điệp số bị trừng trị, số chui vào đồn bót, tổ chức tự vệ hương thôn tan rã, nông thôn được giải phóng, từ khu rừng Cái Nháp, cơ quan Huyện uỷ được chuyển về ngọn Kênh Năm, cùng lúc tôi được điều về một cơ quan khác, ở một địa bàn khác. Hết thời khó khăn chồng chất, tiếp xúc với dân chỉ có đêm, bây giờ đi lại ban ngày phơi phới, đêm là lúc tụ tập văn nghệ của tốp thanh niên. Ðêm chia tay, các anh, chị, con, dâu ông Sáu đãi tôi nồi cháo cá khoai nóng hổi, thơm lừng. Út Ngọc vẫn ngồi kế bên tôi, dạn dĩ như tiếc muối, như sắp mất điều gì khó nói. Tôi cũng tỏ ra là người con trai đã lớn, thành thật thương Ngọc, nhưng cũng thành thật chẳng dám nói lời yêu. Nhận chén cháo trên tay Ngọc khẽ chạm vào mấy ngón tay, đơn giản vậy mà sao vẫn nhớ.

Lại chị Nhàn khéo tính, đẩy chúng tôi ra ngoài sân phơi, trăng mười sáu đã nghiêng về Tây, sương đã đẫm ướt lá rừng, chúng tôi đứng lặng thinh, thỉnh thoảng bốn mắt chạm vào nhau. Nói gì bây giờ, lời hẹn ước yêu thương chăng? Tôi không thể làm khổ Ngọc, trong đời, chữ nếu đã là mơ hồ, trong chiến tranh chữ nếu càng mỏng manh hơn. Rạo rực, lâng lâng, tôi kéo đầu Ngọc ngã lên vai mình và vội áp vào má một mùi tóc mới gội, lâng lâng.

Ngày lên đường tôi cố gặp lại Ngọc, từ giã cái liếp lượm sáng đèn đêm, nơi có gần mười con nước rong, tôi “xung phong” có mặt ở đó. Không ai nói ra điều gì, tôi cũng không dám hẹn ngày trở lại. Con nước ròng không cho phép chúng tôi có thời gian dài nhìn nhau, Ngọc mở sợi dây mũi cho xuồng tôi rời đi mà như rưng rưng. Ngọc còn đứng đó bao lâu nữa, có trách sao con nước ròng vội chảy, có chờ con bìm bịp kêu con nước nổi cho xuồng trở về để cột lại sợi dây? Còn tôi, cũng không dám ngoái đầu lại để thấy Ngọc đứng đó và mái chèo cũng chỉ dỡ lên để xuống. Giờ này có ai biết nỗi lòng của chúng tôi, người đi thì cứ đi, người ở lại thì không thể đợi.

Bến Dựa là địa danh của một đoạn sông mà đầu ngoài vàm gọi là Cái Nháp, lên ngọn là Cái Ngay, nước lớn chia năm xẻ bảy lên nguồn, nước ròng chỉ gom lại một dòng ra biển. Tôi và Ngọc chỉ có một dòng sông, nhưng mãi mãi là hai đầu nỗi nhớ./.

 

Nguyễn Thái Thuận

 

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.

Những chi bộ đảng đầu tiên ở Cà Mau

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với con đường kiên định: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.