ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 9-3-25 19:09:48
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bến Dựa một lần về

Báo Cà Mau Bến Dựa chỉ là một đoạn sông ngắn, hằng ngày cần mẫn làm người trung chuyển đưa nước lớn về ngã ba Cái Đuốc, ngọn Cái Ngay; tiễn nước ròng ra Cái Nháp, đổ ra ngã ba Tam Giang, xuôi về biển cả. Khu rừng bên bờ Đông Bến Dựa nơi cơ quan Huyện uỷ Tư Kháng (Đầm Dơi ngày nay), làng rừng Huỳnh Ngọc Điệp tồn tại.

Được tháp tùng với Ðoàn Cựu chiến binh Tiểu đoàn U Minh 1 về Bến Dựa, trong tôi chẳng những phấn khích bởi tượng bia tưởng niệm chiến thắng Bến Dựa vừa mới hoàn thành, ghi dấu một đơn vị quân đội non trẻ và những người con anh hùng đã làm nên chiến công đầu, chói lọi; Bến Dựa còn lưu giữ quá nhiều kỷ niệm trong tôi hơn 65 năm về trước.

Trưởng ban Liên lạc Cựu chiến binh Tiểu đoàn U Minh 1 Nguyễn Minh Phúc; Trần Hà Thanh, nguyên Tham mưu trưởng Tiểu đoàn; Ðặng Thành Long, nguyên Ðại đội trưởng Ðại đội 1002, mà tiền thân là Tiểu đoàn Ngô Văn Sở và một số cụ khác tuổi đã ngoài U80, U90 chầm chậm leo lên các bậc thềm, mắt đăm đăm nhìn lên những dòng chữ trên bia tượng, không nén được xúc động. Tại nơi này, cách đây 65 năm, đơn vị của các anh đã làm nên chiến thắng vang dội. Và, dọc theo bãi mắm này, 6 đồng đội của họ đã anh dũng hy sinh trong buổi sáng đó. Máu của họ đã hoà vào đất, những tấm bia ghi tên họ các anh rải rác ở các nghĩa trang, những người vợ, người con của họ không còn khóc, hồn thiêng của họ đã khắc vào những dòng chữ trên bia.

Bia tưởng niệm chiến thắng Bến Dựa. Ảnh: THANH MỘNG

Bia tưởng niệm chiến thắng Bến Dựa. Ảnh: THANH MỘNG

Do biến đổi của địa hình và việc bố trí lại dân cư, tổ chức cơ quan hành chánh, bia tượng chiến thắng Bến Dựa được đặt cạnh cơ quan xã Hiệp Tùng, sát khu dân cư, cách trận địa ngày ấy hơn 1 km, mặt trông ra bờ sông với bãi mắm, dây cóc kèn như là một chứng thực của trận đánh 65 năm trước. Nhân ngày lễ, Tết, chính quyền địa phương tổ chức lễ viếng, Nhân dân qua lại thắp những nén nhang tỏ lòng tri ân, thương tiếc.

Hai ngày phục kích đón đoàn chài của Trần Lệ Xuân ở kênh xáng Cái Ngay, thì Ðại đội 1002 do đồng chí Sáu Nhung làm Ðại đội trưởng đã ngoặt vô Bến Dựa, chặn đánh đoàn Bác Ái - thực chất là tổ chức tuyên truyền chiến tranh tâm lý của chính quyền Ngô Ðình Diệm, trực thuộc phủ tổng thống được một đại đội thuỷ quân lục chiến và trung đội bảo an hộ tống từ Thanh Tùng về kênh xáng Cái Ngay. Ngày càn quét đánh phá dọc theo rạch Bào Dừa, tối lại địch gom dân để chiếu phim lừa mị, tôn sùng Ngô Ðình Diệm và quan thầy Mỹ, vu khống cộng sản.

6 giờ 40 phút ngày 25/3/1960, chiếc tàu gỗ chở toàn bộ quân địch lọt vào trận địa phục kích của ta, khẩu trung liên do Trung đội trưởng Nguyễn Văn Như nổ súng phát lệnh, chiếc tàu mất lái thả trôi theo dòng nước chảy siết, rồi đâm mũi lên bờ sát công sự của ta. Cuộc chiến diễn ra quyết liệt, số địch sống sót dồn ra mũi tàu để lên bờ. Ta vừa vận động bắn thẳng vào thân tàu, vừa tập trung hoả lực tiếp ứng hướng chính diện, xác địch số văng xuống sông, số la liệt trên bờ.

Do con nước ròng bỏ bãi rất sâu, từ công sự không thể phát huy được hoả lực, các chiến sĩ của ta đã đứng thẳng chĩa mũi súng xuống thân tàu nã đạn. Trung đội trưởng Phạm Công Thâu, Nguyễn Văn Như, Trung đội phó Lưu Văn Dự, Tiểu đội trưởng Trần Việt Hoa, Lâm Chí Cang, xạ thủ trung liên Chín Trương, 6 con người đã dũng cảm ngã xuống trong tư thế đó.

Ðể có những dòng chữ cô đúc trên bia, thực địa của trận đánh chi tiết đến ngàn lần, tiếng nổ, khói súng, những thân người vạch rừng truy kích địch, những ánh mắt rực lửa căm thù, động tác quỵ xuống của đồng đội, sự chống trả điên cuồng của địch... không bức phù điêu nào tả hết. Sau 30 phút chiến đấu, ta đã làm chủ trận địa, hơn 100 tên địch đền tội, bắt 51 tù binh, số sống sót luồn rừng chạy ra kênh xáng Cái Ngay chờ cứu viện. Ta thu 120 súng các loại, trong đó có 1 cối 60 ly, 12 trung liên, số còn lại Thompson, Carbin, trường tự động, 1 máy chiếu phim và nhiều quân trang quân dụng.

65 năm chiến thắng Bến Dựa, lần nữa các cựu chiến binh Tiểu đoàn U Minh 1, đơn vị 3 lần được phong tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, được dịp hồi tưởng chiến công, lắng nghe hồn thiêng đồng đội của mình, nói với các anh trách nhiệm của người đang sống. Dẫu rằng, cứ mỗi lần về Bến Dựa là có người vắng mặt, đi xa.

***

Có lẽ điểm nhấn của Bến Dựa trước đồng khởi 1960 là trại đáy của ông Sáu Tân, cư dân duy nhất ở khúc sông này. Chỉ một cái nhà ba gian lợp lá, sàn phơi trên gò đất và liếp lượm sát mé sông. Vốn tốt bụng và ở vị trí thuận lợi, gia đình ông Sáu tất nhiên là nơi cung cấp thông tin về địch, nơi nuôi chứa, san sẻ thức ăn cho làng rừng.

Là người có tầm vóc cao quắc thước, miệng rộng, tiếng nói vang vang như sấm đầu mùa, nước da đồng đen, bộ đồ bà ba ống rộng. Ông Sáu giao hết công việc hàng đáy cho các con trai, con dâu và con gái Út Ngọc, thỉnh thoảng ông mới nhúng tay vào khi cột đáy có dấu hiệu siêu vẹo, các dây chằng không đủ lực khi nước chảy xiết; ông là người chỉ huy vừa tối thượng lại vừa cao tay nghề.

Những đêm nước rong, cái đèn măng-sông thời đó là hoàng kim, tôi thu mình vụng về bên đống cá, tôm, cua, trong khi Út Ngọc, con gái út của ông Sáu và những người khác đôi tay thoăn thoắt lựa cá vào cần xé, tôm thì dồn đống xúc vô cần xé đem luộc phơi khô, những chú cua giương hai càng chống trả, vậy mà Út Ngọc bắt trói dễ như chơi.

Là con trai mới lớn, tôi bắt nhịp với việc lựa cá, bắt cua rất nhanh, hết cái thời Út Ngọc nhìn tôi trói cua mà lén cười mủm mỉm. Cũng không nhớ từ lúc nào, chị Nhàn, con dâu thứ ba ông Sáu, đẩy qua đẩy lại để tôi và Út Ngọc ngồi gần nhau. Không như ông Sáu, Út Ngọc vừa người, tóc dài chấm lưng, mắt to, miệng cười rất có duyên, chỉ giống ông Sáu ở nước da bánh mật, nước da của người con gái sông nước, lam lũ, cũng chẳng sao. Không biết các anh trong làng rừng nói với những người trong gia đình điều gì, mà mấy lần sau tôi ra trại đáy thì họ theo dõi tôi rất chặt, riêng chị Nhàn thì như mừng ra mặt. Chúng tôi vẫn ngồi kế bên nhau, nhưng nét vô tư, hồn nhiên của Út Ngọc thì như kín đáo, ý tứ hơn, chỉ mái tóc phất phơ bên hai má tròn thì không sao cất giữ được.

Ðồng khởi năm 1960, bọn tề điệp số bị trừng trị, số chui vào đồn bót, tổ chức tự vệ hương thôn tan rã, nông thôn được giải phóng, từ khu rừng Cái Nháp, cơ quan Huyện uỷ được chuyển về ngọn Kênh Năm, cùng lúc tôi được điều về một cơ quan khác, ở một địa bàn khác. Hết thời khó khăn chồng chất, tiếp xúc với dân chỉ có đêm, bây giờ đi lại ban ngày phơi phới, đêm là lúc tụ tập văn nghệ của tốp thanh niên. Ðêm chia tay, các anh, chị, con, dâu ông Sáu đãi tôi nồi cháo cá khoai nóng hổi, thơm lừng. Út Ngọc vẫn ngồi kế bên tôi, dạn dĩ như tiếc muối, như sắp mất điều gì khó nói. Tôi cũng tỏ ra là người con trai đã lớn, thành thật thương Ngọc, nhưng cũng thành thật chẳng dám nói lời yêu. Nhận chén cháo trên tay Ngọc khẽ chạm vào mấy ngón tay, đơn giản vậy mà sao vẫn nhớ.

Lại chị Nhàn khéo tính, đẩy chúng tôi ra ngoài sân phơi, trăng mười sáu đã nghiêng về Tây, sương đã đẫm ướt lá rừng, chúng tôi đứng lặng thinh, thỉnh thoảng bốn mắt chạm vào nhau. Nói gì bây giờ, lời hẹn ước yêu thương chăng? Tôi không thể làm khổ Ngọc, trong đời, chữ nếu đã là mơ hồ, trong chiến tranh chữ nếu càng mỏng manh hơn. Rạo rực, lâng lâng, tôi kéo đầu Ngọc ngã lên vai mình và vội áp vào má một mùi tóc mới gội, lâng lâng.

Ngày lên đường tôi cố gặp lại Ngọc, từ giã cái liếp lượm sáng đèn đêm, nơi có gần mười con nước rong, tôi “xung phong” có mặt ở đó. Không ai nói ra điều gì, tôi cũng không dám hẹn ngày trở lại. Con nước ròng không cho phép chúng tôi có thời gian dài nhìn nhau, Ngọc mở sợi dây mũi cho xuồng tôi rời đi mà như rưng rưng. Ngọc còn đứng đó bao lâu nữa, có trách sao con nước ròng vội chảy, có chờ con bìm bịp kêu con nước nổi cho xuồng trở về để cột lại sợi dây? Còn tôi, cũng không dám ngoái đầu lại để thấy Ngọc đứng đó và mái chèo cũng chỉ dỡ lên để xuống. Giờ này có ai biết nỗi lòng của chúng tôi, người đi thì cứ đi, người ở lại thì không thể đợi.

Bến Dựa là địa danh của một đoạn sông mà đầu ngoài vàm gọi là Cái Nháp, lên ngọn là Cái Ngay, nước lớn chia năm xẻ bảy lên nguồn, nước ròng chỉ gom lại một dòng ra biển. Tôi và Ngọc chỉ có một dòng sông, nhưng mãi mãi là hai đầu nỗi nhớ./.

 

Nguyễn Thái Thuận

 

Chiều Sài Gòn

Tựa bài viết “Chiều Sài Gòn” nghe như chơi vơi, rất xưa, bởi Sài Gòn - Gia Ðịnh đã có hơn 300 năm tuổi, thì đồng nghĩa cũng có hơn một triệu buổi chiều. Nhưng “Chiều Sài Gòn” tôi viết đây chỉ là chiều 30/4/1975, buổi chiều đầu tiên “Sài Gòn ơi ta đã về đây” như lời bài hát một thời có sức hút mạnh mẽ.

Huyền thoại biệt động thành Cà Mau

Thị xã Cà Mau những năm cuối thập niên 1950, dưới chế độ Mỹ - Diệm, không khí ngột ngạt bởi những cuộc càn quét, bắt bớ. Đám cảnh sát mật vụ, lính bảo an lùng sục khắp nơi, ráo riết truy lùng những người kháng chiến cũ, những người mà chúng nghi là "Việt cộng nằm vùng".

Thăm địa chỉ đỏ

Di tích Hồng Anh Thư Quán (số 43, đường Phạm Văn Ký, Phường 2, TP Cà Mau) là một trong những di tích lịch sử hiếm hoi ghi dấu chặng đường cách mạng của người Cà Mau trước năm 1930. Hồng Anh Thư Quán được công nhận Di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia ngày 4/8/1992.

Tri ân người mở cõi

Ðầu xuân năm nay tôi được dự lễ khánh thành khu mộ thân tộc ông bà Phạm Hữu Liêm - Lê Thị Liễu, tại ấp Bàu Vũng, xã Tân Hưng, huyện Cái Nước. Chung quanh khu nghĩa mộ có mấy công trình phụ nhưng ý nghĩa đáng để mọi người suy ngẫm. Ðó là hồ sen, tuy diện tích không lớn nhưng ông Liêm giải thích sen là “Quốc hoa” của dân tộc Việt Nam, “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Phía tay phải là một hồ khác để nuôi cá các loại, chim le le và vịt trời. Phía sau công trình là một bờ cây đước xanh rờn, cao lớn.

Thêm hiện vật quý thời chống Pháp

Vừa qua, trong chuyến công tác tại TP Hồ Chí Minh, Bảo tàng tỉnh Cà Mau vinh dự được tiếp nhận một số hiện vật vô cùng quý giá, gồm 47 hình ảnh và 11 hiện vật liên quan đến 2 nhân vật lịch sử nổi tiếng của tỉnh Cà Mau, là Trần Văn Đại (Bí thư Tỉnh uỷ 1939-1940) và Trần Văn Thời (Bí thư Tỉnh uỷ 1940-1941). Toàn bộ số hiện vật này được ông Trần Hoà Bình, con trai của ông Trần Văn Đại (Tám Đại) hiến tặng.

Ba ông già tuổi tỵ

Ðó là ba ông già cùng làm ở Xưởng Quân giới (XQG) Cà Mau thời kháng chiến chống Mỹ. Nói về XQG này thì những người cùng thời, tham gia kháng chiến ở Cà Mau, hầu như ai cũng biết. Họ hay gọi là xưởng ông Ba Thợ Rèn (thường gọi là Ba Lò Rèn), vì ông Ba Thợ Rèn (Nguyễn Trung Thành) là người chịu trách nhiệm lập xưởng (đầu năm 1960) và rất nổi tiếng với việc sản xuất đạn pháo lăn-xà-bom, được tuyên dương anh hùng ngay đợt đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ (năm 1965); xưởng cũng hai lần được tuyên dương anh hùng.

Đi B

Nhà Bác sĩ Nguyễn Văn Thể nằm trên đường Hoàng Diệu, Phường 2, TP Cà Mau. Gian trước dành một khoảng khiêm tốn làm phòng mạch, thỉnh thoảng có vài bệnh nhân quen tới khám. Kế trong là bàn tiếp khách. Khắp phòng treo khá nhiều tranh ảnh nghệ thuật. Một cây đàn trên giá. Khi không có bệnh nhân thì ông thường ôm đàn, phong cách rất nghệ sĩ, và ông cũng thích giao du với giới văn nghệ sĩ Cà Mau.

Những lá thư còn lại

Tự nhận mình có viết thư, biết cảm nhận cái nghĩa, cái tình qua những bức thư ấy, một thời là công cụ giao lưu tình cảm gia đình, đồng đội, bạn bè, có khi là cánh én báo hiệu tình yêu nảy nở. Còn vì một tiếc nuối khác, chiến tranh đã kết thúc 50 năm, sứ mệnh của những lá thư đó cũng đã chấm dứt vai trò cầu nối của mình, những lá thư còn được giữ lại như một kỷ vật quý báu, nếu được xếp ở một góc nhỏ trong bảo tàng, chỉ những chữ đề “Con gái thương yêu của mẹ"; "Anh Chín kính mến"; "Em thân yêu...” người xem dễ chạm vào xúc động, bâng khuâng.

Ăn Tết ở làng rừng

Tôi đang mở trường tư thục, dạy trên 150 học trò. Bí thư Chi bộ xã Lương Hoà là đồng chí Tư Tài, đem nghị quyết Tỉnh uỷ Bến Tre rút tôi về Ban Văn nghệ tỉnh. Chưa kịp thu xếp đi, thì má tôi (bà Hồ Thị Luỹ) ở Cà Mau qua tới. Má tôi chẻ trái chuối xiêm ra, đưa cho tôi lá thư ngắn của anh Hai Thống (Trần Hữu Vịnh, Bí thư xã Khánh Bình Tây, sau này là Phó bí thư Tỉnh uỷ Minh Hải) kèm theo mấy lời chú Chín Thép, Uỷ viên Thường vụ xã (viết chung ý là “Đám giỗ làm lớn cúng ông bà, chú phải về quê nhà để cúng ông bà báo hiếu”).

Về địa chỉ đỏ...

Những ngày giáp Tết, lực lượng đoàn viên, thanh niên Công an tỉnh Cà Mau có chuyến về nguồn thăm các di tích lịch sử tiêu biểu