Thời gian qua, phương tiện khai thác thuỷ sản ven bờ tăng nhanh với số lượng lớn, làm nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên nhanh cạn kiệt. Thực trạng trên đang đặt ra nhiều thách thức đối với công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản của tỉnh hiện nay.
Thời gian qua, phương tiện khai thác thuỷ sản ven bờ tăng nhanh với số lượng lớn, làm nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên nhanh cạn kiệt. Thực trạng trên đang đặt ra nhiều thách thức đối với công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản của tỉnh hiện nay.
Ông Lâm Văn Phú, Phó Chủ tịch UBND thị trấn Sông Ðốc, huyện Trần Văn Thời, cho biết: “Suy giảm nguồn lợi thuỷ sản ven bờ là mối quan tâm lớn nhất của địa phương hiện nay. Cửa Sông Ðốc tập trung dân cư đông đúc, một số ngư dân trong huyện và các địa phương lân cận đến vùng biển ven bờ khai thác thuỷ sản, sử dụng ngư cụ kích thước nhỏ hơn quy định để khai thác khiến nguồn lợi thuỷ sản ven bờ bị cạn kiệt. Ðịa phương đã phối hợp chặt với các ngành chức năng để quản lý, thế nhưng chúng ta cần có những giải pháp hiệu quả hơn chứ không chỉ là tuần tra và xử phạt như hiện nay”.
![]() |
Đầu tư đánh bắt xa bờ, hạn chế đến mức thấp nhất đánh bắt ven bờ là giải pháp phát triển bền vững ngành đánh bắt thuỷ sản. Ảnh: MINH TẤN |
Thời gian qua, tỉnh đã triển khai nhiều dự án phát triển thuỷ sản như đầu tư phát triển đánh bắt xa bờ, xây dựng các cảng cá, bến neo đậu tàu thuyền... để nâng cao hiệu quả khai thác nguồn lợi thuỷ sản bền vững. Ông Võ Minh Tấn, Ðội phó Ðội Kiểm ngư Sông Ðốc, cho biết: “Việc kiểm tra, xử phạt những trường hợp vi phạm về khai thác, đánh bắt trên biển được chúng tôi thực hiện thường xuyên, chặt chẽ. Thế nhưng, vấn đề là chúng ta cần phải có giải pháp bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản một cách căn cơ chứ không chỉ là xử phạt. Một thực tế là ngư dân đánh bắt ven bờ thường là đối tượng nghèo, không có khả năng đầu tư phương tiện để vươn khơi nên sẵn sàng vi phạm vì mưu sinh”.
Hiện Dự án Nguồn lợi ven biển vì sự phát triển bền vững (CRSD) đang được triển khai. Cà Mau đã thành lập Ban chỉ đạo và đã triển khai chương trình, phân chia nguồn vốn trên 16 triệu USD cho các huyện: U Minh, Trần Văn Thời, Cái Nước, Năm Căn, Ngọc Hiển, Ðầm Dơi... Nguồn vốn dùng để tập trung đầu tư: nâng cao kết cấu hạ tầng đảm bảo an toàn sinh học, triển khai mô hình trình diễn, đào tạo tập huấn, thông tin tuyên truyền, giám sát dịch bệnh, giám sát môi trường.
Ông Võ Minh Tấn cho biết: “Trong dự án này, chúng tôi đang triển khai và bước đầu cho thấy hiệu quả khá tích cực. Chúng tôi tiến hành các hoạt động quản lý khai thác thuỷ sản ven bờ, tuyên truyền các quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản, bộ quy tắc nghề cá có trách nhiệm và các văn bản pháp luật liên quan, tăng cường năng lực quản lý và thực thi pháp luật”.
Tuy nhiên, một vấn đề cần đặt ra là làm thế nào để tái tạo được nguồn lợi thuỷ sản. Ông Võ Minh Tấn đánh giá:
“Bên cạnh việc thanh tra, kiểm soát, tuyên truyền người dân trong việc khai thác thuỷy sản theo đúng quy định của Nhà nước thì chúng ta cần có giải pháp hiệu quả và mang tính bền vững hơn nữa. Thiết nghĩ, cần có nghiên cứu và đưa ra quy định về vùng cấm khai thác có thời hạn, nhằm quy hoạch chi tiết phát triển nghề cá ven bờ, xây dựng thể chế và chính sách quản lý nghề cá ven bờ, phục hồi và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản, khắc phục ô nhiễm môi trường vùng ven biển. Ðồng thời với quản lý hoạt động khai thác thuỷ sản ven bờ còn nhằm hỗ trợ, bổ sung sinh kế cho cộng đồng ngư dân nghèo, hỗ trợ sinh kế ban đầu cho tổ đồng quản lý và phát triển giới, thành lập khu bảo vệ biển như bảo vệ bãi đẻ, bãi sinh trưởng của tôm hùm, rạn san hô…”.
Ông Lâm Văn Phú đánh giá: “Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản và bảo vệ môi trường vùng biển ven bờ trên địa bàn huyện là thách thức lớn đối với địa phương. Cần xây dựng các tổ đồng quản lý nghề cá ven bờ nhằm phục hồi và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường vùng ven biển, tạo sinh kế cho cộng đồng ngư dân ven biển. Trên cơ sở đó, ngư dân tham gia sẽ tuân thủ khai thác với kích cỡ mắt lưới, phương tiện, mùa vụ khai thác và thời điểm cấm khai thác theo quy định”./.
Ðặng Duẩn