ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 1-6-25 07:30:58
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Học sinh miền Nam trên đất Bắc

Câu chuyện về những tấm lòng

Báo Cà Mau Những năm chống Mỹ cứu nước, Nhân dân miền Bắc đã từng chắt chiu từng hạt muối, hạt gạo..., đóng góp máu xương cùng Nhân dân miền Nam chiến đấu chống đế quốc xâm lược, thống nhất đất nước như thế nào, đó là chuyện to tát tôi không có tham vọng kể tới. Tôi chỉ kể lại những câu chuyện nhỏ trong phạm vi học sinh miền Nam (HSMN) mà lúc ra Bắc, dẫu còn rất nhỏ, chúng tôi đã biết cảm nhận, biết ơn và trân quý suốt cuộc đời mình.

Bảy mươi năm không phải là thời gian ngắn, nhưng những ân tình của đồng bào miền Bắc, của thầy cô giáo người Bắc vẫn hằn sâu trong ký ức của mỗi HSMN chúng tôi. Nó luôn là ngọn lửa sưởi ấm cuộc đời những cậu bé, cô bé xa nhà không hẹn được ngày về. Nó là những biểu tượng cao đẹp khiến chúng tôi luôn thao thức và dặn lòng phải làm việc không mệt mỏi, phải sống cho thật đẹp để đền ơn đáp nghĩa những người đã xây dựng nền móng, cho ta cái nghĩa làm người.

Còn nhớ những ngày đầu con tàu tập kết cặp bến Sầm Sơn, chúng tôi được bà con Thanh Hoá, già trẻ, bé lớn xếp hàng đông nghẹt vẫy cờ, hoa, vẫy tay đón tiếp vô cùng nồng hậu. Chúng tôi lập tức được đưa về các lán trại có những sạp dài lót sẵn những lớp rơm dầy cho khỏi rét - tháng 11, 12, tháng 1 miền Bắc đang giữa những ngày đông lạnh. Chúng tôi được ăn uống bồi dưỡng sau những ngày trên biển, bình yên và ấm cúng. Ðến sau khoảng một tuần, chúng tôi được bố trí tới ở tạm các nhà dân, chờ xe đưa về khu trường nội trú dưới Hải Phòng, phải nhường lán trại đón chuyến tàu sau.

Hải Phòng tập trung gần hết các trường HSMN. Biểu tượng hai bàn tay mẹ Hải Phòng che chở những “hạt giống đỏ” HSMN trên đất Bắc, được đặt tại Vườn hoa Nguyễn Du, TP Hải Phòng. (Ảnh Ban Liên lạc HSMN cung cấp)

Những ngày ở tạm nhà dân, là những ngày mà cho đến bây giờ chỉ nghĩ tới thôi mắt tôi đã cay xè, ứa lệ. Ðó là cảnh, tuy ở rải rác nhưng chúng tôi ăn cơm chung một chỗ. Chỗ ăn là một ngôi nhà lá cọ nhỏ, có bếp nấu và bàn ăn, bên ngoài là hàng rào bao bọc. Khi chúng tôi ăn cơm, nhiều trẻ em miền Bắc đứng bên ngoài nhìn vào thèm thuồng, nhưng chúng tôi không được phép chia sẻ, vì có các cô chú canh giữ.

Sau chiến thắng lịch sử Ðiện Biên Phủ, miền Bắc chưa kịp bắt tay làm kinh tế, Nhân dân một số nơi thu hoạch mùa màng không đủ trang trải cuộc sống. Một số nơi còn đói. Thanh Hoá trong diện đói. Nhưng cán bộ, bộ đội, học sinh miền Nam tập kết ra Bắc vẫn đảm bảo được no, vì đó còn là vấn đề đấu tranh chính trị với chính quyền miền Nam.

Những ngày sau đó, chúng tôi được đưa về các trường nội trú ở Hải Phòng, mọi hoạt động đi vào nền nếp, quy củ của một ngôi trường nội trú hiện đại theo các nước tiên tiến. Có điều HSMN không phải giống nhau, đa số các bạn có cha mẹ, anh chị em, chú bác, dì dượng thân thuộc ra cùng. Những bạn ấy ngày nghỉ nếu ở gần, được người thân đón về; còn người thân ở xa thì về cùng gia đình dịp hè, Tết. Bộ phận “chỉ một mình” không người đón, ở lại trường, tiếp tục ăn cơm tập thể cũng không ít. Số này, chúng tôi đã có những cái Tết và hè cũng rất đáng nhớ...

Thường khi Tết đến, thầy cô, nhà trường chú tâm tổ chức Tết thật “quê hương” để an ủi chúng tôi. Như tổ chức gói bánh tét, bánh ít, làm các loại mứt miền Nam. Tổ chức đón Giao thừa... Sáng mùng 1 Tết, chúng tôi được chia nhau về các gia đình ở gần trường ăn Tết, để cảm nhận không khí quê hương, tình cảm ấm áp của gia đình. Những thầy cô giáo người miền Nam ở lại trường không nói, còn có những thầy cô người miền Bắc cũng ở lại ăn Tết với chúng tôi. Những tấm lòng đó của đồng bào, thầy cô người miền Bắc có thể nào quên...

Những mùa hè, nhóm “mồ côi” của chúng tôi được một số địa phương đón về nuôi dưỡng, cho nghỉ ngơi. Có khi nửa tháng, có khi một tháng hơn... Thường là những nơi có điểm nghỉ, có bãi tắm như ở Quảng Ninh (Bãi Cháy), Ðồ Sơn.

Có thể nói, trong quãng đời HSMN đó cho đến hết đại học, Bác Hồ, Ðảng lo hết; Nhân dân miền Bắc nhường cơm sẻ áo, lo hết; thầy cô chăm sóc, lo lắng hết. Chúng tôi không phải lo và không thiếu thốn gì.

Vậy mà..., không phải cứ HSMN là tất cả đều ngoan; HSMN là không biết quậy phá. Cánh trường nữ không nói tới, chắc vì không có cái gan to. Còn cánh con trai ở các trường HSMN khỏi phải nói. Thỉnh thoảng vào vườn nhà dân nhổ trộm khoai, chặt trộm mía, đốn trộm chuối, nhổ cải, nhổ hành về ăn. Lần mò, lén lút, thầy cô không biết. Dân cũng chỉ phản ánh qua loa, cũng không nặng nhẹ gì. Có lần, đêm vào trộm gà, dân bắt giữ. Bạn khác mặc đồ “vía”, xách cặp, đeo kính giả làm thầy tới giải thoát cho bạn.

Rồi cũng xong. Không phải dân không biết làm hung làm dữ, nhưng vì thương các cháu HSMN xa nhà đang độ tuổi ăn tuổi lớn...

Thương nhất những thầy giáo, cô giáo người miền Bắc dạy trường HSMN chúng tôi. Ở những ngôi trường đó, thầy cô chính là cha mẹ. Chúng tôi xa nhà, mọi tâm tư, tình cảm có vấn đề gì, chúng tôi đều bấu víu vào thầy cô, như bấu víu vào cha mẹ mình. Thầy cô lắng nghe, giải toả và gắn bó... Có rất nhiều thầy cô cứ đeo bám học trò, chăm sóc từng li từng tí, yêu thương như con ruột đẻ ra, dù chưa có vợ con.

Rồi thầy cô quên cả chuyện lấy vợ, lấy chồng. Giải phóng rồi, HSMN ai về quê nấy, quý thầy cô tuổi đã ngấp nghé 50. Quý thầy còn tìm được vợ, còn các cô, có người ở vậy cho đến già. Thử hỏi có tình cảm, sự hy sinh nào cao quý vậy, như thầy cô dạy trường HSMN.

Sau giải phóng, HSMN trưởng thành về quê miền Nam phục vụ. Còn một số học chưa xong, các em tiếp tục học tập, trưởng thành. Ðội ngũ đó giữ nhiều nhiệm vụ và chức danh quan trọng từ Trung ương tới địa phương. Họ đều có chung một điểm là hướng lòng mình về miền Bắc, về những đùm bọc, hy sinh dành cho mình. Lần lượt họ về các địa phương trường đóng hoặc trường ở lúc sơ tán, xây ở đó những biểu tượng ghi dấu nghĩa tình, những ngôi trường, những con đường, những nếp nhà tình nghĩa. Họ trang bị máy móc thiết bị cho các trường phổ thông. Họ hỗ trợ học bổng và phương tiện cho các em học sinh các nơi họ đã đi qua...

Ðiều chắc chắn tôi muốn nói là, dẫu có bù đắp bao nhiêu đi chăng nữa cũng không sao đền đáp được công ơn của đồng bào, của thầy cô miền Bắc hy sinh cho HSMN chúng tôi trong những ngày tháng túng khó đó.

Tôi nghĩ, câu chuyện tôi kể lại hôm nay, dẫu rất sơ sài, nhưng cũng là một ký ức đẹp trong cuộc đời chúng tôi, một nét riêng của trang sử đất nước những ngày chống Mỹ...


Ðàm Thị Ngọc Thơ

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.