Thứ tư, 3-9-25 18:19:10
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Học sinh miền Nam trên đất Bắc

Câu chuyện về những tấm lòng

Báo Cà Mau Những năm chống Mỹ cứu nước, Nhân dân miền Bắc đã từng chắt chiu từng hạt muối, hạt gạo..., đóng góp máu xương cùng Nhân dân miền Nam chiến đấu chống đế quốc xâm lược, thống nhất đất nước như thế nào, đó là chuyện to tát tôi không có tham vọng kể tới. Tôi chỉ kể lại những câu chuyện nhỏ trong phạm vi học sinh miền Nam (HSMN) mà lúc ra Bắc, dẫu còn rất nhỏ, chúng tôi đã biết cảm nhận, biết ơn và trân quý suốt cuộc đời mình.

Bảy mươi năm không phải là thời gian ngắn, nhưng những ân tình của đồng bào miền Bắc, của thầy cô giáo người Bắc vẫn hằn sâu trong ký ức của mỗi HSMN chúng tôi. Nó luôn là ngọn lửa sưởi ấm cuộc đời những cậu bé, cô bé xa nhà không hẹn được ngày về. Nó là những biểu tượng cao đẹp khiến chúng tôi luôn thao thức và dặn lòng phải làm việc không mệt mỏi, phải sống cho thật đẹp để đền ơn đáp nghĩa những người đã xây dựng nền móng, cho ta cái nghĩa làm người.

Còn nhớ những ngày đầu con tàu tập kết cặp bến Sầm Sơn, chúng tôi được bà con Thanh Hoá, già trẻ, bé lớn xếp hàng đông nghẹt vẫy cờ, hoa, vẫy tay đón tiếp vô cùng nồng hậu. Chúng tôi lập tức được đưa về các lán trại có những sạp dài lót sẵn những lớp rơm dầy cho khỏi rét - tháng 11, 12, tháng 1 miền Bắc đang giữa những ngày đông lạnh. Chúng tôi được ăn uống bồi dưỡng sau những ngày trên biển, bình yên và ấm cúng. Ðến sau khoảng một tuần, chúng tôi được bố trí tới ở tạm các nhà dân, chờ xe đưa về khu trường nội trú dưới Hải Phòng, phải nhường lán trại đón chuyến tàu sau.

Hải Phòng tập trung gần hết các trường HSMN. Biểu tượng hai bàn tay mẹ Hải Phòng che chở những “hạt giống đỏ” HSMN trên đất Bắc, được đặt tại Vườn hoa Nguyễn Du, TP Hải Phòng. (Ảnh Ban Liên lạc HSMN cung cấp)

Những ngày ở tạm nhà dân, là những ngày mà cho đến bây giờ chỉ nghĩ tới thôi mắt tôi đã cay xè, ứa lệ. Ðó là cảnh, tuy ở rải rác nhưng chúng tôi ăn cơm chung một chỗ. Chỗ ăn là một ngôi nhà lá cọ nhỏ, có bếp nấu và bàn ăn, bên ngoài là hàng rào bao bọc. Khi chúng tôi ăn cơm, nhiều trẻ em miền Bắc đứng bên ngoài nhìn vào thèm thuồng, nhưng chúng tôi không được phép chia sẻ, vì có các cô chú canh giữ.

Sau chiến thắng lịch sử Ðiện Biên Phủ, miền Bắc chưa kịp bắt tay làm kinh tế, Nhân dân một số nơi thu hoạch mùa màng không đủ trang trải cuộc sống. Một số nơi còn đói. Thanh Hoá trong diện đói. Nhưng cán bộ, bộ đội, học sinh miền Nam tập kết ra Bắc vẫn đảm bảo được no, vì đó còn là vấn đề đấu tranh chính trị với chính quyền miền Nam.

Những ngày sau đó, chúng tôi được đưa về các trường nội trú ở Hải Phòng, mọi hoạt động đi vào nền nếp, quy củ của một ngôi trường nội trú hiện đại theo các nước tiên tiến. Có điều HSMN không phải giống nhau, đa số các bạn có cha mẹ, anh chị em, chú bác, dì dượng thân thuộc ra cùng. Những bạn ấy ngày nghỉ nếu ở gần, được người thân đón về; còn người thân ở xa thì về cùng gia đình dịp hè, Tết. Bộ phận “chỉ một mình” không người đón, ở lại trường, tiếp tục ăn cơm tập thể cũng không ít. Số này, chúng tôi đã có những cái Tết và hè cũng rất đáng nhớ...

Thường khi Tết đến, thầy cô, nhà trường chú tâm tổ chức Tết thật “quê hương” để an ủi chúng tôi. Như tổ chức gói bánh tét, bánh ít, làm các loại mứt miền Nam. Tổ chức đón Giao thừa... Sáng mùng 1 Tết, chúng tôi được chia nhau về các gia đình ở gần trường ăn Tết, để cảm nhận không khí quê hương, tình cảm ấm áp của gia đình. Những thầy cô giáo người miền Nam ở lại trường không nói, còn có những thầy cô người miền Bắc cũng ở lại ăn Tết với chúng tôi. Những tấm lòng đó của đồng bào, thầy cô người miền Bắc có thể nào quên...

Những mùa hè, nhóm “mồ côi” của chúng tôi được một số địa phương đón về nuôi dưỡng, cho nghỉ ngơi. Có khi nửa tháng, có khi một tháng hơn... Thường là những nơi có điểm nghỉ, có bãi tắm như ở Quảng Ninh (Bãi Cháy), Ðồ Sơn.

Có thể nói, trong quãng đời HSMN đó cho đến hết đại học, Bác Hồ, Ðảng lo hết; Nhân dân miền Bắc nhường cơm sẻ áo, lo hết; thầy cô chăm sóc, lo lắng hết. Chúng tôi không phải lo và không thiếu thốn gì.

Vậy mà..., không phải cứ HSMN là tất cả đều ngoan; HSMN là không biết quậy phá. Cánh trường nữ không nói tới, chắc vì không có cái gan to. Còn cánh con trai ở các trường HSMN khỏi phải nói. Thỉnh thoảng vào vườn nhà dân nhổ trộm khoai, chặt trộm mía, đốn trộm chuối, nhổ cải, nhổ hành về ăn. Lần mò, lén lút, thầy cô không biết. Dân cũng chỉ phản ánh qua loa, cũng không nặng nhẹ gì. Có lần, đêm vào trộm gà, dân bắt giữ. Bạn khác mặc đồ “vía”, xách cặp, đeo kính giả làm thầy tới giải thoát cho bạn.

Rồi cũng xong. Không phải dân không biết làm hung làm dữ, nhưng vì thương các cháu HSMN xa nhà đang độ tuổi ăn tuổi lớn...

Thương nhất những thầy giáo, cô giáo người miền Bắc dạy trường HSMN chúng tôi. Ở những ngôi trường đó, thầy cô chính là cha mẹ. Chúng tôi xa nhà, mọi tâm tư, tình cảm có vấn đề gì, chúng tôi đều bấu víu vào thầy cô, như bấu víu vào cha mẹ mình. Thầy cô lắng nghe, giải toả và gắn bó... Có rất nhiều thầy cô cứ đeo bám học trò, chăm sóc từng li từng tí, yêu thương như con ruột đẻ ra, dù chưa có vợ con.

Rồi thầy cô quên cả chuyện lấy vợ, lấy chồng. Giải phóng rồi, HSMN ai về quê nấy, quý thầy cô tuổi đã ngấp nghé 50. Quý thầy còn tìm được vợ, còn các cô, có người ở vậy cho đến già. Thử hỏi có tình cảm, sự hy sinh nào cao quý vậy, như thầy cô dạy trường HSMN.

Sau giải phóng, HSMN trưởng thành về quê miền Nam phục vụ. Còn một số học chưa xong, các em tiếp tục học tập, trưởng thành. Ðội ngũ đó giữ nhiều nhiệm vụ và chức danh quan trọng từ Trung ương tới địa phương. Họ đều có chung một điểm là hướng lòng mình về miền Bắc, về những đùm bọc, hy sinh dành cho mình. Lần lượt họ về các địa phương trường đóng hoặc trường ở lúc sơ tán, xây ở đó những biểu tượng ghi dấu nghĩa tình, những ngôi trường, những con đường, những nếp nhà tình nghĩa. Họ trang bị máy móc thiết bị cho các trường phổ thông. Họ hỗ trợ học bổng và phương tiện cho các em học sinh các nơi họ đã đi qua...

Ðiều chắc chắn tôi muốn nói là, dẫu có bù đắp bao nhiêu đi chăng nữa cũng không sao đền đáp được công ơn của đồng bào, của thầy cô miền Bắc hy sinh cho HSMN chúng tôi trong những ngày tháng túng khó đó.

Tôi nghĩ, câu chuyện tôi kể lại hôm nay, dẫu rất sơ sài, nhưng cũng là một ký ức đẹp trong cuộc đời chúng tôi, một nét riêng của trang sử đất nước những ngày chống Mỹ...


Ðàm Thị Ngọc Thơ

 

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.

Những chi bộ đảng đầu tiên ở Cà Mau

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với con đường kiên định: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.