ĐT: 0939.923988
Thứ tư, 23-7-25 07:23:04
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Chuyện về liệt sĩ nằm lại vùng đất lửa

Báo Cà Mau Cách đây 5 năm, trong chuyến về nguồn cùng Tỉnh đoàn Cà Mau, đó là lần thứ 3 tôi được đặt chân đến Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn (tỉnh Quảng Trị). Mang theo tấm lòng của người con miền Nam đến thắp nén tâm hương cho những vị anh hùng của Tổ quốc, như một sự tình cờ kỳ diệu, giữa hơn 10 ngàn ngôi mộ liệt sĩ nằm lại ở vùng đất lửa, đoàn chúng tôi bất ngờ tìm được một phần mộ đặc biệt. Ðó chính là nơi an nghỉ của Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Xinh, quê tại xã Tân Lộc, huyện Thới Bình.

Trong cảm xúc vừa bất ngờ, vừa bồi hồi, chúng tôi đứng quanh ngôi mộ, nhìn nhau không nói một câu nào. Bằng niềm biết ơn chân thành, mỗi người một việc, người lặng lẽ thắp hương, người lấy điện thoại chụp tấm ảnh lưu niệm, người thì ngồi trầm tư, đốt một điếu thuốc cắm lên lư hương mộ phần. Khung cảnh ấy ngỡ như một cuộc hội ngộ của những người đồng hương lâu ngày gặp lại dù đôi đường âm dương cách biệt.

Tuổi xuân gửi lại nơi chiến trường

Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Xinh xuất thân từ gia đình nông dân yêu nước, là con trai một, căm hận trước cảnh giặc Pháp giết cha, chiến tranh loạn lạc, nợ nước thù nhà đã thôi thúc ông lên đường theo tiếng gọi của Tổ quốc.

Theo lời gia đình kể lại, năm 1945, người chiến sĩ cách mạng Nguyễn Ngọc Xinh dẫn theo 4 đứa con rời xa quê hương ra Thủ đô Hà Nội học tập, chiến đấu. Ban đầu, chuyến đi dự định chỉ 8 tháng sẽ về lại miền Nam, nơi quê nhà vợ ông cùng người con gái út mòn mỏi chờ đợi. Mãi đến năm 1975, chỉ còn 3 người con trở về, ông Xinh và người con trai thứ 4 đã ra đi mãi mãi.

Hơn 70 năm trôi qua, bà Nguyễn Kim Dung vẫn chưa một lần gặp mặt cha mình.

Hơn 30 năm, người chiến sĩ cách mạng ấy đã hoạt động khắp các chiến trường từ Nam chí Bắc; vào tháng 4/1975, trong không khí sục sôi khí thế thống nhất đất nước thì ông đã hy sinh tại Ðường 9 Nam Lào. Tiếp bước truyền thống cách mạng của gia đình, 4 người con theo ông (gồm 3 trai, 1 gái) tích cực tham gia kháng chiến. Trong đó, người con trai thứ 4 - Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Vinh cũng đã nằm lại nơi đất mẹ, được chôn cất tại Nghĩa trang Liệt sĩ TP Cần Thơ.

Hạnh phúc khi cha nằm ở vùng đất thiêng

Khi biết tôi đã có dịp đến viếng mộ Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Xinh tại Quảng Trị, bà Nguyễn Kim Dung (ngụ Ấp 8, xã Tân Lộc, huyện Thới Bình), người con gái út trong gia đình, đã vô cùng mừng rỡ, liên tục hỏi tôi về nơi cha mình đã yên nghỉ ra sao. Sâu thẳm trong cõi lòng, khát khao lớn nhất của bà là được một lần thăm lại mộ phần của đấng sinh thành dù giờ đây mái tóc đã pha sương.

Mộ phần Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Xinh tại Nghĩa trang Quốc gia Trường Sơn (tỉnh Quảng Trị).

“Năm cha đi, tôi vẫn còn trong bụng mẹ, những câu chuyện về cha cũng chỉ được nghe qua lời mẹ kể. Vì là gia đình cách mạng, thời điểm đó giặc vào nhà bắt bớ, bỏ tù mẹ tôi suốt 1 năm trời. Bọn chúng dùng nhiều cách tra tấn dã man nhằm để mẹ tôi thừa nhận là nhà có Việt cộng, nhưng bà nhất quyết không khai một lời. Ðường sá xa xôi cách trở, đến giờ tôi vẫn chưa một lần ra thăm mộ cha. Bây giờ tuổi cao sức yếu, nếu đi được tôi cũng không đi nổi nữa, nhưng gia đình cũng yên tâm khi ông được chôn cất ở nghĩa trang lớn của đất nước. Nhiều năm trước, có mấy anh cán bộ ở huyện Thới Bình đi ra ngoài đó cũng tới thắp hương, chụp hình kỷ niệm gửi cho gia đình xem”, bà Dung xúc động.

Theo bà Dung, những ngày ở mặt trận ông luôn gửi thư về nhà để hỏi thăm vợ con, nhưng rồi cuộc chiến càng ác liệt, những lá thư cứ thế càng ít đi, khi đất nước giải phóng gia đình nuốt nước mắt nhận được lá thư báo tử.

“Khi cha tôi hy sinh, do không có thân nhân nên khi chôn cất trên bia mộ ghi là Liệt sĩ Nguyễn Văn Xinh, nhưng tên thật của ông là Nguyễn Ngọc Xinh, nếu có thể sửa lại đúng tên thì gia đình mừng lắm. Hằng năm, vào các dịp lễ, Tết, Ngày Thương binh - Liệt sĩ, chính quyền địa phương đều đến thăm hỏi, tặng quà gia đình”, bà Dung bày tỏ.

Căn nhà nhỏ nằm bên dòng kênh xanh thẳm của quê hương Tân Lộc, ở nơi đó hằng ngày các thế hệ con cháu vẫn hương khói ấm cúng cho 2 liệt sĩ và 1 Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Ghi nhận những đóng góp to lớn, hy sinh thầm lặng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, mẹ Trần Kim Hoa (vợ Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Xinh) được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng vào năm 2014.

Những hành trình dài hơn ngàn cây số dẫu không đến được, những cuộc đoàn tụ giờ chỉ còn là nỗi khát khao. Cất lại nỗi nhớ thương sâu trong trái tim, gia đình bà Dung cũng như hàng triệu gia đình có người thân đi kháng chiến trên dải đất hình chữ S vẫn luôn tự hào khi thế hệ cha, anh của mình đã quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh và hậu thế mai sau vẫn mãi tưởng nhớ, tri ân công lao những người anh hùng đã ngã xuống vì độc lập, tự do cho dân tộc./.

 

Hữu Nghĩa

 

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.

Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến - Tiếng nói của khát vọng độc lập, tự do

Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.