Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.
Máy phát sóng Ðài Phát thanh Nam Bộ thời kháng chiến chống Mỹ. Ảnh tư liệu
Vài nét về Ðài Nam Bộ Kháng chiến và các đài phát thanh ở Nam Bộ
Theo nhiều nhân chứng lịch sử và nhóm biên soạn cuốn “Ðây! Ðài Phát thanh Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến” (Nhà Xuất bản Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, năm 1995) ghi chép lại, khi cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn trường kỳ, gian khổ, năm 1946, để tiếp sức cho làn sóng Ðài Tiếng nói Việt Nam, đồng chí Phạm Văn Ðồng, đại diện Chính phủ tại miền Nam đã quyết tâm xây dựng Ðài Phát thanh Liên khu IV với danh xưng “Tiếng nói Nam Bộ”, phát trên làn sóng điện 24,26 m tại đình Thọ Lộc, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Ðài Tiếng nói Nam Bộ tự giới thiệu đây là “Tiếng nói Nam Bộ, tiếng nói đau đớn, tiếng nói căm hờn”; tiếp theo là nhạc hiệu “Tiếng gọi thanh niên” của cố Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước.
Cũng trên làn sóng của Ðài Phát thanh Liên khu IV, ngày 12/6/1947, một buổi phát thanh thứ hai ra đời lấy tên là "Radio Ðồng Tháp Mười”. Ðài có lời tự giới thiệu: "Ðây là Radio Ðồng Tháp Mười, tiếng nói lưu động của bưng biền Nam Bộ, phát thanh mỗi ngày...”.
Cũng vào năm 1947, tại Ðồng Tháp Mười, với sự chỉ đạo trực tiếp của các đồng chí Phạm Văn Ðồng, Phạm Hùng và nhiều đồng chí lãnh đạo Ðảng, Nhà nước sau này, Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến ra đời ngày 1/12/1947 giữa Tháp Mười (huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An). Công lao hình thành đài thuộc về các bậc tiền bối như Trần Bửu Kiếm, Lê Văn Nhàn, Huỳnh Tấn Phát, Giáo sư Lê Văn Huân. Sau đó là các vị lão thành khác như Nguyễn Văn Cần, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng... Lúc đó, trang thiết bị vật tư vô cùng khan hiếm, mang từ nội thành ra vùng bưng biền, vượt qua bao đồn, bót địch; hiểm nguy rình rập qua bao vòng kiểm soát của kẻ thù. Tư liệu lịch sử ghi lại, ngày đài lên tiếng, cả Thường vụ Xứ uỷ, có cố Tổng bí thư Lê Duẩn hay các bậc lão thành cách mạng kiệt xuất khác như Hà Huy Giáp, Phạm Hùng, Ung Văn Khiêm, Hoàng Dư Khương, Nguyễn Văn Kỉnh đều chăm chú lắng nghe. Có thời điểm tiếng được, tiếng mất nhưng với tất cả cán bộ, nhân viên của đài như vậy là thành công quá mong đợi, vì Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến đã lên tiếng.
Ðài hoạt động rất hiệu quả, đưa nhiều thông tin về phong trào cách mạng ở Nam Bộ. Với sự ra đời của “Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến”, “Radio Tháp Mười” thôi không hoạt động nữa mà chỉ còn “Ðài Tiếng nói miền Nam" đóng ở chiến khu bình định. Sau đó, số cán bộ “Ðài Tiếng nói miền Nam” đã được chuyển về tăng cường cho Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến. Cuối năm 1949, vì thấy Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến không còn là đài của vùng bưng biền nữa và đã trở thành đài của toàn Nam Bộ nên đài đổi tên là “Ðài Tiếng nói Nam Bộ”.
Năm 1950, vì thấy cần có một đài phát thanh gần gũi hơn và có tiếng nói trực tiếp hơn với đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn nên “Ðài Phát thanh Sài Gòn - Chợ Lớn Tự do” ra đời, phát sóng đầu tiên ngày 25/1/1951. Ðược đồng bào trong thành khi đó hoan nghênh và giúp đỡ về mọi mặt.
Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời. Khi đó Mặt trận không thể không có đài phát thanh riêng của mình. “Ðài Phát thanh Giải phóng” ra đời ngày 1/2/1960.
Ở cả miền Ðông Nam Bộ hay Tây Nam Bộ, các đài phát thanh luôn là mục tiêu đánh phá hàng đầu của địch với máy bay quần thảo, cày xới nhằm tiêu diệt các đài phát thanh; nhưng rất may không một đài phát thanh nào bị dập tắt hoàn toàn. Mà như Giáo sư Trần Văn Giàu nhận định: "Mỗi đài phát thanh là một đội quân xung kích không khi nào bại trận”.
Riêng với Ðài Nam Bộ Kháng chiến (Ðài Tiếng nói Nam Bộ), vào ngày 1/12/1954, đúng 7 năm sau buổi phát thanh đầu tiên tại Kênh Quận (ngày 1/12/2947) ở Ðồng Tháp Mười, đài phát sóng buổi cuối cùng tại Kênh 30, huyện Thới Bình, Cà Mau. Sau đó nhiều cán bộ của đài được phân công nhận nhiệm vụ mới ở miền Nam. Còn lại các anh chị em của đài và nhiều máy móc được tập kết ra Bắc nhận công tác tại Ðài Tiếng nói Việt Nam và các cơ quan khác. Nhiều người sau này trở thành những lãnh đạo của ngành phát thanh và truyền hình quốc gia cũng như các địa phương.
Ðoàn cán bộ Ðài Tiếng nói Việt Nam cùng lãnh đạo tỉnh Cà Mau chụp ảnh lưu niệm. Ảnh: CHÍ DIỆN
Hoạt động trong điều kiện cực kỳ khó khăn, gian khổ, hiểm nguy rình rập
Nhiều nhân chứng của đài kể lại, hồi đó điều kiện đi lại cực kỳ khó khăn. Lúc đó báo giấy sẽ không thể chuyển đến vùng bưng biền cũng như vùng kháng chiến hay vùng đô thị tạm chiến rất gian nan vì sự vây ráp và kiểm soát chặt chẽ của thực dân Pháp. Phải khôn khéo và mưu trí, dũng cảm lắm mới vượt qua các sự ngăn chặn, bắt bớ của địch mới mong phân phối, phát hành báo cho quần chúng. Chỉ có đài phát thanh là hiệu quả vì không bị giới hạn bởi điều kiện địa lý, địa hình. Ðài phát thanh chính là vũ khí tuyên truyền lợi hại nhất trong thời điểm bấy giờ.
“Ðài Nam Bộ Kháng chiến” (1947-1954), nhiều lần bị vây ráp, khủng bố, truy lùng; buộc các bác, các chú phải di chuyển liên tục từ Long An qua Ðồng Tháp, xuống Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm thì ngược lại Ðồng Tháp Mười. Có lúc vừa đi vừa phát sóng mà lại là phát sóng trực tiếp. Ðiển hình như đầu năm 1948, thấy Ðồng Tháp Mười tập trung quá nhiều cơ quan đầu não, Uỷ ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ quyết định dời một số bộ phận về các tỉnh Nam Sông Hậu hoạt động. Chiếc xuồng đầu chở máy nổ và các máy móc đi trước dò đường, lúc vượt Sông Tiền thì gặp địch tuần tiễu. Nhiều người của đài phải nhảy xuống sông để trốn thoát. Ðịch kéo xuồng về Cao Lãnh, rồi rêu rao là đã bắt được Ðài Tiếng nói Nam Bộ của Việt Minh, nhưng tối đó đài vẫn phát sóng đúng giờ, gây tiếng vang với quần chúng và làm bẽ bàng sự huênh hoang của quân địch.
Sau đó, một bộ phận đài vượt Sông Tiền, Sông Hậu về Chắc Băng, Thới Bình. Ðài đặt ở nhà một bác nông dân cố cựu, yêu quý kháng chiến; ở cuối Kênh 9, cách sông lớn khoảng 2 km. Trong khi dựng nhà cửa, cán bộ của đài ở nhà bác Năm Trợ. Máy phát dùng lại máy ở Tháp Mười. Phòng thu rộng khoảng 12 m2, vách đóng bằng ván gỗ cây tràm. Dùng máy nổ nạp vào ắc quy để ban đêm phát không gây ra tiếng động nhằm che giấu quân địch về địa điểm của đài. Ðài lại tiếp tục phát các chương trình phát thanh tiếng Việt và tiếng Pháp.
Sau đó đài về Kênh 7, có thời điểm về Tân Tiến, huyện Ðầm Dơi. Năm 1949, sau tết Nguyên đán, đài được lệnh dời trở lên Ðồng Tháp Mười để gần sự chỉ đạo của Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ, cũng bằng xuồng. Suốt những năm ở đây, đài tiếp tục sự nghiệp cao cả, thông tin như lời hiệu triệu; toàn quân, toàn dân Nam Bộ đồng lòng, đồng sức kháng chiến chống Pháp trường kỳ.
Ông Phạm Mạnh Hùng, Phó tổng Giám đốc Ðài Tiếng nói Việt Nam tặng quà người dân xã Tân Bằng, huyện Thới Bình, nhân chuyến về nguồn thăm lại nơi hoạt động của Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến. Ảnh: CHÍ DIỆN
Cuối năm 1949, trước sự bố ráp điên cuồng, lùng sục gắt gao của địch, Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ quyết định dời toàn bộ cơ quan, ban, ngành, đoàn thể về lại căn cứ U Minh. Cán bộ, nhân viên đài lại phải vượt qua 2 con sông lớn là Sông Tiền và Sông Hậu. Có hôm lọt vào một trận ruồng bố của địch, các bác, các chú phải ngâm mình dưới nước cả ngày, chỉ ló mỗi lỗ mũi, mắt qua đám lục bình để thở. Nghe rõ tiếng chân địch rầm rập trên bờ. Cũng may nhờ mưu trí, dũng cảm đã vượt qua hiểm nguy để về U Minh an toàn. Ðài được dựng lại nhưng ở sâu hơn với căn nhà 3 gian. Phòng phát thanh dựng bằng gỗ tràm nhưng có cửa kính, có phòng đợi cho người đến làm, có phòng khách. Cán bộ, nhân viên, nhất là biên tập viên âm nhạc đều có nhà riêng ở ven bên kênh. Các chương trình của đài tiếp tục được phát sóng phục vụ thính giả miền Nam.
Theo lời kể của các nhân chứng lịch sử, do Ban Liên lạc của đài sau này có ghi chép lại: Tháng 4/1950, khoảng 11 giờ trưa, khi các chú, các anh vừa cho đài lên sóng thì máy bay địch tới. 4 chiếc quần thảo điên cuồng, liên tục rồi lao xuống ném bom. Cán bộ, nhân viên của đài bất chấp bom đạn, lao vào cứu máy móc, lôi ra khỏi khu vực ném bom. Có quả trúng đài, nhà bốc cháy ngùn ngụt. Rất may toàn bộ cán bộ, nhân viên của đài không ai hy sinh, một số máy móc được cứu kịp thời. Sau khi hết trận bom, mọi người xúm tay lắp lại máy, làm lại các bộ phận, nhưng lúc này đài buộc phải phát ngoài trời. Giờ phát thanh vẫn phát như thường lệ. Một lần nữa các chú, các anh của đài lại thắng địch, chúng không sao dập tắt được "tiếng nói" của đài.
Sau đó, đài tiếp tục hoạt động ở nhiều vùng tại Cà Mau, Bạc Liêu. Ðài phát ngày 3 buổi, cả 4 thứ tiếng: Việt, Pháp, Hoa, Khmer. Bà Bùi Thị Ngàn, 95 tuổi, ấp Kinh 9, xã Tân Bằng, huyện Thới Bình, kể rằng, có thời điểm, đài phát sóng ngay tại nhà bà, luôn phải nguỵ trang để địch không phát hiện. Khi đó bà mới 13 tuổi nhưng đã biết làm giao liên, đem các tin, bài về cho đài phát sóng.
Xung quanh “Ðài Tiếng nói Nam Bộ” có nhiều câu chuyện vui và những huyền thoại được kể; đi kháng chiến không chỉ có vất vả, hy sinh mà nhiều kỷ niệm trong bưng biền rất ấn tượng, khó quên. Những câu chuyện ấy một lần nữa khẳng định, có đài là có Ðảng, có Chính phủ ở trong bưng biền lúc bấy giờ; công cuộc cách mạng là của mỗi người dân.
Bia kỷ niệm Ðài Phát thanh Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến được xây dựng tại xã Tân Bằng, huyện Thới Bình. Ảnh tư liệu |
Biểu tượng của sự can đảm, mưu trí, dũng cảm và tính độc đáo của ngành phát thanh
Có thể nói, đi vào hoạt động trong bối cảnh cao trào cách mạng ở những ngày đầu thành lập nước vô cùng khó khăn, gian khổ. Công tác thông tin tuyên truyền miệng hay các loại hình khác sẽ gặp trở ngại rất lớn. Việc thành lập đài phát thanh trong khu bưng biền, khu kháng chiến ở Nam Bộ là đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp cách mạng lúc bấy giờ. Mặc dù hầu hết đều không ai được đào tạo về phát thanh từ nội dung lẫn kỹ thuật, nhưng với lòng yêu nước, sục sôi khí thế cách mạng, vì độc lập, tự do, một thế hệ những người con ưu tú của ngành phát thanh những ngày đầu ở Nam Bộ đã nhận lấy nhiệm vụ cực kỳ khó khăn và phức tạp. Họ quyết tâm xây dựng cho được một đài phát thanh cho khu vực, nói lên tiếng nói của đồng bào Nam Bộ, của Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ, của Ðảng và Bác Hồ. Dù ban đầu rất sơ khai, đơn giản nhưng tiếng nói của đài như một lời hiệu triệu truyền đi thông tin mạnh mẽ về khát khao độc lập, khiến quân thù khiếp sợ. Chúng bắn phá, vây ráp, ném bom hòng tiêu diệt, dập tắt tiếng nói của đồng bào và chiến sĩ. Song, vượt qua muôn trùng hiểm nguy, di chuyển dọc các tuyến sông rạch, bưng biền của Nam Bộ, Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến vẫn duy trì các buổi phát sóng; đĩnh đạc tuyên bố với quốc dân, đồng bào về một Việt Nam, Nam Bộ khao khát hoà bình, sẵn sàng hy sinh đến những người con cuối cùng để Nam Bộ và giang sơn Việt Nam thu về một mối.
Với ngành phát thanh, cán bộ, nhân viên của Ðài Phát thanh Nam Bộ Kháng chiến là các bậc tiền bối, lão thành yêu nước, dân tộc, yêu tiếng nói Việt Nam đến thiết tha, chấp nhận hy sinh bản thân để làm tròn sứ mệnh cao cả. Sự phát triển của Ðài Nam Bộ Kháng chiến trong 7 năm kháng chiến chống Pháp trường kỳ, gian khổ đã nói lên phẩm giá của người phát thanh thời đó, kể cả sau này; trước mưa bom, bão đạn không hề run sợ mà tiếp tục tiến lên cống hiến, hy sinh; tất cả vì quốc dân, đồng bào; vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, hoà bình, thống nhất đất nước.
Với 7 năm hình thành và phát triển, 16 lần di chuyển, 5 lần bị địch tập kích nhưng mọi thế hệ cán bộ, nhân viên của đài tự hào mà nói rằng, đã luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Ðảng, Nhà nước và cách mạng giao. Ðài đã được nhận Huân chương Kháng chiến hạng Nhất. Nhiều bác, nhiều cô chú của đài đã nhận được các phần thưởng cao quý của Ðảng, Nhà nước, của cấp uỷ, chính quyền địa phương, của Ðài Tiếng nói Việt Nam.
Trong thời đại ngày nay, trước sức ép cạnh tranh của các loại hình truyền thông, nhất là truyền thông số, mạng xã hội, đài phát thanh có lúc, có nơi gặp nhiều khó khăn, thách thức. Song, nhìn lại bề dày lịch sử 80 năm đồng hành cùng đất nước của Ðài Tiếng nói Việt Nam (7/9/1945-7/9/2025) nói chung; lịch sử vẻ vang của Ðài Nam Bộ Kháng chiến nói riêng, truyền thống ấy lại càng được tô thắm và tự hào thêm ở từng giai đoạn. Ðồng thời, cũng khẳng định một chân lý rằng, dù có bất cứ khó khăn, trở ngại, thậm chí là hiểm nguy, nếu đoàn kết, thống nhất, sống với lý tưởng của người “Chiến sĩ phát thanh”, chắc chắn chúng ta sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xứng danh là người chiến sĩ thông tin trên mặt trận văn hoá tư tưởng trong giai đoạn mới, kỷ nguyên mới.
Cơ quan thường trú Ðài Tiếng nói Việt Nam tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long là cơ quan đại diện của đài phát thanh quốc gia tại vùng. Nhiều năm qua, vào các dịp kỷ niệm ngày thành lập Ðài Tiếng nói Việt Nam, cơ quan thường trú đều tổ chức gặp mặt các bác, các cô chú của Ðài Phát thanh Nam Bộ Kháng chiến và các đài phát thanh trong chiến tranh. Tình cảm của các cô chú như: Sáu Võ, Sáu Mẫn, Trần Phương, cô Thanh... luôn ấm áp và tràn đầy tự hào khi nói về những năm tháng gian khó, hiểm nguy đã qua, gửi gắm niềm tin vào các thế hệ phát thanh ngày nay.
Thời gian thấm thoắt trôi qua, các bác, các cô chú cũng lần lượt rời cõi tạm, để lại những dấu ấn, kỷ niệm không quên; họ chính là những "tượng đài” cho nhiều thế hệ cán bộ, nhân viên ngành phát thanh, trong đó có anh chị em VOV đồng bằng sông Cửu Long học tập và noi theo.
VOV đồng bằng sông Cửu Long đã tổ chức các đợt về nguồn thăm lại Di tích Bia Ðài Nam Bộ Kháng chiến ở Cà Mau, Long An để ôn lại truyền thống; tri ân các bậc lão thành đã đóng góp xây dựng nên các đài phát thanh trường tồn với lịch sử của vùng đất Nam Bộ kiên cường và bất khuất trong 2 cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Họ đã để lại những dấu ấn vẻ vang, đi cùng năm tháng với lịch sử đất nước, lịch sử "Tiếng nói Việt Nam”./.
(Bài viết có sử dụng tư liệu của các tác giả trong cuốn “Ðây! Ðài Phát thanh Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến” (Nhà Xuất bản Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, năm 1995) và một số đồng nghiệp).
Nhà báo Bùi Trọng Ðiển
Giám đốc Cơ quan thường trú Ðài Tiếng nói Việt Nam khu vực đồng bằng sông Cửu Long