Chỗ tôi đang ở nằm bên lề thành phố, cách đây khoảng mươi năm nơi này còn đặc sánh không gian và lối sống làng quê. Những gian nhà cấp bốn dung dị với mảnh vườn nhỏ trước nhà, thấp thoáng hàng cau nắng sớm, ríu rít chim chóc chiều hè. Mùa gió nhìn những cánh diều giấy bay trên cánh đồng xanh như thảm lụa đã ngỡ cái thành phố ồn ào, náo nhiệt kia sẽ chẳng bao giờ xâm chiếm được sự thanh bình ở nơi này.
Chỗ tôi đang ở nằm bên lề thành phố, cách đây khoảng mươi năm nơi này còn đặc sánh không gian và lối sống làng quê. Những gian nhà cấp bốn dung dị với mảnh vườn nhỏ trước nhà, thấp thoáng hàng cau nắng sớm, ríu rít chim chóc chiều hè. Mùa gió nhìn những cánh diều giấy bay trên cánh đồng xanh như thảm lụa đã ngỡ cái thành phố ồn ào, náo nhiệt kia sẽ chẳng bao giờ xâm chiếm được sự thanh bình ở nơi này.
Bỗng nhiên quy hoạch mở rộng thành phố, chẳng mấy chốc vùng đất này bị xoá sạch dấu vết của một vùng quê. Ruộng đồng không còn, thay thế vào đó là những ngôi nhà cao tầng, khu đô thị. Người dân ở đây bỗng nhiên trở thành dân phố, tiền đền bù mang xây nhà lớn như biệt thự, xây thêm nhiều dãy trọ cho thuê. Mỗi ngày tôi đều thấy nhiều người lao động nghèo tứ xứ đổ về đây. Ðiều khiến tôi xúc động là chính họ đã cõng quê xuống phố, chắt chiu, thêm thắt chỗ này chỗ kia vài nét quê nhà. Trong khi chính người dân nơi đây lại vui vẻ, hả hê khước từ gốc rễ của mình…
Khu phố tôi ở mọc lên nhiều cửa hàng, quán ăn và kinh doanh đủ các loại dịch vụ không thiếu thứ gì. Vậy mà không ít người ở trọ như tôi lại cảm thấy thiếu thốn một thứ gì đó. Có hỏi những công dân thành phố chính cống thì họ bảo “ở đây chả thiếu thứ gì”. Phải đến những ngày nắng oi ả mới thấy thèm đến cháy lòng một tán cây râm mát, khao khát màu xanh mướt mát dịu dàng. Hay đến những ngày tháng tám dồn đuổi theo một mùi hương ký ức mới tìm mà không thấy mẹt thị nào bày bán. Rồi đến những bữa cơm, nhìn nhau gắp miếng rau xanh mà thành ra gắp đủ thứ độc hại bỏ vào miệng lưỡi. Lúc ấy mới biết rằng hoá ra phố hiện đại, xa hoa là vậy mà đang thiếu thốn điều căn bản nhất. Thiếu đi màu xanh của cây cối chẳng khác gì thiếu đi lá phổi. Sự ngột ngạt sẽ hút cạn kiệt dần sức sống của con người. Bên cạnh đó là thiếu đi cái hồn quê dung dị từng tưới tắm biết bao tâm hồn.
Tôi quen ông cụ sửa xe đạp đầu ngõ quê trên miền ngược xuống phố gần hai chục năm trời. Quán sửa xe lụp xụp của ông mới được trồng một gốc cây bìm bìm, ông nhờ người thân mang từ quê xuống. Tôi tưởng tượng ra chẳng mấy chốc cây sẽ leo kín quán rồi hôm nào đó một thảm hoa tím ngắt nở bung giữa phố đủ làm khối kẻ lặng người. Ông cụ dường như cũng chung một dòng suy tưởng như tôi nên lúc rảnh rỗi thường ngồi ngắm cây tặc lưỡi bảo: “Thứ cây gì đâu mà tốt tính. Lá thì thanh nhiệt cơ thể, hoa thì thanh nhiệt tâm hồn”.
Làm bạn với ông là bà cụ thu mua đồng nát, cứ đôi ba tháng bà về quê một lần. Lúc xuống bao giờ cũng mang một bầu cây. Khi thì cây chanh, cây ớt, gốc sả. Cũng có khi bà mang theo những cây thuốc vườn nhà, ai đứt tay đã có lá nhọ nồi, ai bị sỏi thận đã có mấy gốc cây cối xay, cỏ sữa, cam thảo đất, qua quán sửa xe bứt thêm nắm lá bìm bìm vậy là hơn chán thuốc tây. Cậu thanh niên đi phụ hồ tuổi mới đôi mươi mặt còn non choẹt thuê trọ chật chội thì phải kiếm thùng xốp, vỏ chai khoét ra làm một vườn rau sống treo lủng lẳng trên hiên nhà trọ.
Cái vườn treo di động ấy được cậu làm kỳ công như một kỳ quan. Tôi có ghé chơi vài lần ngồi nghe cậu say sưa kể về từng loại rau. Nào là rau xà lách phải chấm với nước sốt cà chua mới tuyệt, cần gì cứ phải trứng hấp rau mơ, hấp thử với rau húng mà xem cứ gọi là tốn cơm phải biết… Lần nào tôi ghé thăm cũng có quà mang về, vườn rau treo của cậu thanh niên ấy chứa đựng cả một góc quê nhà.
Người ta nói những người dân lao động như ông cụ sửa xe, bà lão thu mua sắt vụn hay cậu thanh niên phụ hồ mướt mát mồ hôi ấy đều rất nghèo, vậy mà tôi đâu thấy họ nghèo. Tôi chỉ thấy phố sẽ nghèo nàn đơn điệu đến thế nào nếu không có những người như họ miệt mài cõng quê xuống phố./.
Vũ Thị Huyền Trang