Có một nhà văn từng nói: “Tản văn gần như là một loại hình phi hư cấu. Hầu hết những người cầm bút trong đời thể nào cũng có những giây phút đụng chạm đến thể loại này. Thế nhưng, để có được một giọng điệu riêng cho tản văn thì có thể nói vô cùng hiếm hoi”. Và có lẽ tác giả Lê Minh Hà là một trong những “sự hiếm hoi” ấy khi đã tìm ra được giọng điệu riêng của mình qua tập sách “Còn nhớ nhau không”.
Có một nhà văn từng nói: “Tản văn gần như là một loại hình phi hư cấu. Hầu hết những người cầm bút trong đời thể nào cũng có những giây phút đụng chạm đến thể loại này. Thế nhưng, để có được một giọng điệu riêng cho tản văn thì có thể nói vô cùng hiếm hoi”. Và có lẽ tác giả Lê Minh Hà là một trong những “sự hiếm hoi” ấy khi đã tìm ra được giọng điệu riêng của mình qua tập sách “Còn nhớ nhau không”.
“Còn nhớ nhau không” gồm những bài tản văn được viết về thời tản cư qua góc nhìn của một đứa bé gái. Giờ, đứa bé gái ấy đã là một thiếu phụ, khi nghe một người bạn nói rằng: “Chưa ai viết về tuổi nhỏ hoang mang của chúng mình” đã cầm bút lên - và viết, bởi: “Chị ạ, đôi vai ngang của chị lúc cúi xuống tết cái mũ rơm cho em, cánh đồng chân rạ chiều sương ngày cuối năm ngoài liếp cửa, em không muốn nhớ, nhưng chẳng biết làm cách nào để quên”.
Ðó là nỗi nhớ mang dáng hình của những bắp ngô non, của đồng chiều cuống rạ, của dòng sông, của chái bếp được bà dựng vội trong thời tản cư, của những món bánh, thức quà… thòm thèm trên đầu lưỡi; của những giấc mơ con về hàng phượng già nơi thủ đô, những cây kem tê lạnh nơi đầu lưỡi và “từ sự sống thực của một con bé con hay từ những câu chuyện rầm rì không đầu không cuối của mấy bà già đũng quần khai sực bên đống lửa khơi giữa nhà ngày tháng Chạp rét nẻ gót chân”. (Lạc loài ư? Không!)
Mỗi bài tản văn trong tập sách là những miêu tả sống động với những hình ảnh và cảm xúc chân thực, khi thì tả về đàn gà của bà với con gà già quắt queo nhưng người bà nhất quyết không chịu làm thịt, bởi đơn giản con gà già ấy đã cùng gia đình trải qua biết bao cuộc tản cư. Trong thời khốn khó, các món ăn được người phụ nữ tìm mọi cách “biến hoá” sao cho thành những món vừa miệng chồng, con, người thân, là những buổi đi bắt ốc cùng đám bạn… đã khiến những bất trắc, bấp bênh trong cuộc tản cư trở nên “mềm mại” hơn rất nhiều, nhất là qua đôi mắt của một đứa trẻ. “Trẻ nhà quê rời vở rời bút ra là lăn lưng vào việc nhà.
Tôi thì chỉ buồn chân buồn tay làm theo chúng nó. Vậy mà những công việc ti toa tập tọng làm từ hồi bảy, tám tuổi ấy, không ngờ, rất nhiều năm sau này đã quên đủ thứ hay ho từng trải rồi, vẫn nhớ. Nhớ và biết, chỉ có đôi ba năm ấy thôi mà hoá ra trong con người mình phố xá một đời có tới nửa phần quê muốn điêu trác mà không xong”. (Thì cũng là chơi)
Không thể quên - nên những trang văn của “đứa bé gái giờ đã thành thiếu phụ” đong đầy những niềm thương và nỗi nhớ. Ðó không phải là cái nhớ day dứt, khắc khoải mà đó là miền nhớ miên man, đằm sâu như thể người rời quê ra phố thương nhớ mớ cây trái, đàn vịt, mái hiên, góc bưởi, đụn rơm quanh nhà… bởi đơn giản đó là một phần của ký ức, của những gì ta đã gắn bó và trải qua.
“Loay hoay nhớ thế này, những người trẻ tuổi sẽ mắng mình già xơ, già chát mất. Rồi cũng sẽ đến ngày họ hiểu ra thôi, có những tháng ngày đi qua, biết nhớ nó là biết mình còn đang lớn. Ừ, đang, hẳn vậy, nhưng đôi khi hồ nghi tự hỏi. Những năm tháng dài suốt cái thời đẹp nhất đời người ấy, những năm tháng đạn bom đứa trẻ bất an theo những lo sợ và hy vọng của người lớn, sống qua rồi, có thật đáng gì không?”. (Quà đường sơ tán). Nhưng rồi, cũng chính tác giả đã trả lời cho câu hỏi ấy của mình: “Một chút gì để nhớ, để yêu thương thì ai cũng có. Cái chút gì đó luôn luôn là của nả đáng giá nhất đời người.
Nghĩ vậy có hẳn là lạc lõng? Hay là lạc điệu? Có đến nỗi lạc loài không?
Có lẽ nhận ra điều đó sớm thì cũng chỉ tội nợ là người già sớm.
Thôi. Kệ.
Sau tháng Chạp là tháng Giêng.
Là xuân”. (Lạc loài ư? Không!)
Là mùa xuân của một miền ký ức, của một thời trong tâm thức, mấy ai có thể quên?./.
Bài và ảnh: Ngọc Lợi