Tôi và Thanh quen nhau trong công tác thời chiến, hoạt động bí mật chống chế độ độc tài gia đình trị Ngô Ðình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ, trong hoàn cảnh đầy gian khổ, ác liệt. Gia đình thường bị địch theo dõi, bởi Thanh là con liệt sĩ trong cuộc Khởi nghĩa Hòn Khoai dưới sự lãnh đạo của đồng chí Phan Ngọc Hiển năm 1940. Ông bị địch bắt đày đi Côn Ðảo và hy sinh tại đó qua những năm địch tra khảo đày ải khắc nghiệt. Mẹ Thanh là bà Ðương, vừa tròn hai mươi ba tuổi đã trở thành quả phụ ở vậy nuôi con.
Tôi và Thanh quen nhau trong công tác thời chiến, hoạt động bí mật chống chế độ độc tài gia đình trị Ngô Ðình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ, trong hoàn cảnh đầy gian khổ, ác liệt. Gia đình thường bị địch theo dõi, bởi Thanh là con liệt sĩ trong cuộc Khởi nghĩa Hòn Khoai dưới sự lãnh đạo của đồng chí Phan Ngọc Hiển năm 1940. Ông bị địch bắt đày đi Côn Ðảo và hy sinh tại đó qua những năm địch tra khảo đày ải khắc nghiệt. Mẹ Thanh là bà Ðương, vừa tròn hai mươi ba tuổi đã trở thành quả phụ ở vậy nuôi con.
Sau cuộc khởi nghĩa đó, nhà cửa, tài sản cả ấp bị địch trả thù, đốt sạch, gia đình Thanh cũng bị đuổi đi nơi khác. Bà lìa xứ xuống ghe trong túi không một xu, mà trên tay bế Thanh gần một tuổi cùng đứa con trai lên ba, phải quá giang xuồng người hàng xóm. Hằng ngày, bà phải bắt ốc, làm thuê kiếm gạo nuôi con cho đến khi các con trưởng thành. Bà luôn động viên các con tham gia công tác cách mạng đền nợ nước, trả thù nhà. Bà cam chịu thiếu đói không hề than trách, luôn mỉm cười trong khổ nhọc khi nghe tin các con mình công tác tốt, được tập thể yêu thương.
Minh hoạ: HOÀNG VŨ |
Sau Ðồng khởi năm 1960, tôi và Thanh được gia đình cho phép làm lễ cưới. Hoàn cảnh gia đình tôi nghèo, cha, anh em tôi đều tham gia công tác cách mạng thoát ly, Thanh chỉ nhận duy nhất đôi bông tai làm quà cưới, gia đình Thanh cũng không hề đòi hỏi một thứ lễ lộc nào khác. Với bữa cơm đơn giản cá ngát nấu canh chua lá me, cá nâu kho, cá khô khoai cùng một ít rượu, hơn chục người chung vui là chúng tôi thành vợ thành chồng. Trong niềm vui đó tôi rất xúc động, còn Thanh thì sung sướng rơm rớm nước mắt.
Sau lễ cưới, tôi phải đi công tác xa, còn Thanh thì công tác tại xã, thường về sống trong gia đình của vợ chồng anh Ba Vinh, chị Ba Hoa. Ðến năm 1966, Thanh sinh cháu gái Thanh Thu, cháu gần một tuổi thì Thanh nhận nghị quyết điều đi công tác xa nên phải gởi con cho bà ngoại. Mẹ đã từng chịu cực khổ nuôi dưỡng, dạy dỗ anh em Thanh, bây giờ lại tiếp tục nuôi cháu còn quá nhỏ trong điều kiện chiến tranh ác liệt. Thương mẹ lắm, song đành phải vậy thôi.
Từ lâu, công tác và ở nhà anh chị Ba, được anh chị mến thương, chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ mình, trước lúc lên đường công tác xa, Thanh muốn có vật gì để lại cho anh chị làm kỷ niệm. Thanh lục lọi lại tất cả không có thứ nào, chỉ duy nhất đôi bông tai là thứ quà cưới rất quý của bên chồng. Suy đi, tính lại, cuối cùng Thanh gỡ đôi bông tai, trao lại cho anh chị Ba làm vật kỷ niệm. Sau đó, viết thư cho anh Sáu Thẳng (tên bí danh của tôi) chồng mình.
Thanh nói: “Rạng đông này em lên đường đi công tác xa, chắc chắn sẽ có nhiều khó khăn, gian khổ ác liệt, anh chị biết là em cố nén buồn thương gởi cháu Thanh Thu về cho ngoại. Biết rằng, không có bà mẹ nào muốn xa con, trong lúc cháu còn quá nhỏ. Nhưng vì nhiệm vụ Ðảng giao, em phải chấp hành và cố gắng làm tròn, mong nước nhà sớm độc lập, quê hương mình sạch bóng giặc, mẹ con em gặp nhau, em cảm thấy có phần nào vơi bớt nỗi xót xa thương nhớ đó". Thanh hướng về anh chị Ba như dò xét và nói tiếp: "Em có ý định, đôi bông tai là quà cưới của em, em trao lại cho anh chị làm kỷ niệm để nhớ em trong những ngày công tác xa". Thanh ngừng lại nén cơn xúc động, nói tiếp: "Còn em không may có hy sinh thì vật này anh chị giữ để làm kỷ niệm nhớ nhau trong những năm em công tác nơi này được anh chị đùm bọc, chở che cho em…”.
Anh Ba lặng thinh, chị Ba ràn rụa nước mắt, nói trong hơi thở: “Em cũng biết anh chị không bao giờ muốn nhận đôi bông tai này, vì nó là vậy kỷ niệm cưới của em và Sáu Thẳng trong ngày đầu xây dựng hạnh phúc”. Chị nhìn anh Ba như để dò xét và nói thêm: “Nên trước lúc em đi công tác xa, buộc anh chị phải nhận nó như nhận cả tấm lòng của tụi em, bằng giá nào anh chị cũng cố giữ cho được nó…”.
Nghe chị Ba nói tới đây, Thanh ôm ghì chị Ba khóc nức nở, đêm ấy cả nhà không ai ngủ được, hết tâm tình rồi khóc, hết khóc rồi lại tâm tình không bao giờ cạn. Chuyện kéo dài mãi cho đến lúc ngoài trời đã rạng đông, liên lạc đến, Thanh đành gạt nước mắt lên đường. Xuồng đã rời khỏi bến, anh chị Ba đứng lặng trông theo đến khi chiếc xuồng khuất dạng.
Thế rồi, những năm tháng tiếp theo, cả vùng rừng biển này, nơi anh chị sống, cũng như nhiều nơi khác trong tỉnh, địch rải chất độc hoá học, huỷ diệt cây rừng. Rồi pháo bầy, bom thảm, càn quyét, đổ dò, biệt kích… Nhà cháy, người chết, xóm làng bị xoá trắng, phải lánh vào rừng. Trên sông thì tiểu pháo hạm, tàu sắt nghênh ngang tuần tiễu, cắt đứt giữa vùng biển và vùng đồng bằng, các xã vùng biển không có nguồn lương thực cung cấp để sống, nhiều gia đình bị đói phải đi hái trái mắm, đọt ráng về nấu ăn thay cơm, trong đó có gia đình anh chị Ba.
Thời đó có được một lon gạo thôi cũng phải đổi bằng máu, nhiều người bị đói gầy ốm, xanh xao, ngất xỉu. Thế mà anh chị Ba và các cháu cố chịu đựng “một tấc không đi, một li không rời”.
Chiến tranh càng diễn ra ác liệt, Thanh và anh chị Ba không liên hệ, không tin tức gì nhau. Nhưng anh chị không bao giờ nghĩ đến đôi bông tai kỷ niệm đó để cầm bán đổi gạo ăn qua ngày (vì nó là vật đổi gạo dễ nhất). Anh chị cam chịu khó khăn, thiếu đói chứ nhất định giữ nó cho tròn lời hứa trong đêm chia tay với Thanh.
Gần mười năm đi qua, khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc được thống nhất, anh chị nhiều lần đi tìm Thanh, nhưng không gặp. Lại nữa, sau giải phóng, anh chị lo bươn chải tìm chén cơm manh áo cho bầy con. Mãi cho đến đầu năm 1977 mới tìm được nơi công tác của Thanh, chị em gặp nhau mừng mừng tủi tủi, kể cho nhau nghe chuyện vui, buồn của những năm xa cách, không ai cầm được nước mắt… Trong khi đó, chị lấy trong cặp ra một gói giấy đã ngả màu vàng, đặt vào tay Thanh. Chị Ba không còn khóc nữa, chậm rãi nói: “Em nhớ gói này không?”. Thanh còn đang ngơ ngác, chị nói tiếp: “Ðã hơn mười năm rồi, trong đêm em đi công tác xa, trao cho chị đôi bông tai, quà cưới của em và Sáu Thẳng làm kỷ niệm, nay hoà bình rồi, gặp lại em, anh chị trao lại em, hãy nhận nó để anh chị vui”. Thanh cầm lấy, mở ra qua nhiều lớp giấy, đôi bông tai ánh lên màu sáng rực. Thanh ôm nó vào lòng, nói trong nước mắt: “Một lần nữa tụi em xin cảm ơn tấm lòng trong sáng thanh cao của anh chị đã giữ nó, vật kỷ niệm được thay nhiều lần giấy gói, nó vẫn trinh nguyên như ngày cưới của tụi em. Ân sâu, nghĩa nặng này bao giờ mới đền đáp được cho anh chị”.
Chị Ba xúc động ôm Thanh vào lòng cho thoả sự nhớ thương, còn Thanh thì cố tìm lại hơn ấm của người chị đã hơn mười năm xa cách.
Trời chiều, nắng đã tắt từ lâu mà nghĩa nặng tình sâu của hai người không thể bứt rời ra được, mà cứ đi vào sâu thẳm với nỗi nhớ trở thành kỷ niệm đẹp. Dù một kỷ vật nhỏ, nhưng nó lại là quà cưới của Thanh mà anh chị giữ nó suốt hơn mười năm thăng trầm của cuộc chiến tranh đầy gian khổ, ác liệt vẫn còn trao tận tay cho chủ nó trong niềm vui đong đầy nước mắt./.
Nguyễn Nam Trấn