ĐT: 0939.923988
Thứ tư, 16-4-25 21:32:16
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Ðợi chờ

Báo Cà Mau (Viết tặng chị Khương Kim Xuyến - Người phụ nữ miền Nam)

Minh hoạ: Minh Tấn

Ở căn phố 14, đường Ðề Thám, Phường 2, TP Cà Mau, có bà chị 78 tuổi, nổi tiếng về tinh thần kiên trung và tình yêu chung thuỷ. Chúng tôi đến thăm chị vì câu chuyện các anh cựu chiến binh kể về chị lôi cuốn như một khối nam châm.

Lời đồn không sai. Chị Ba Xuyến đem trà rót mời khách và khéo léo từ chối cuộc “phỏng vấn” của chúng tôi. Nhưng nhờ mở đề gọn, chị Ba vui vẻ nói chuyện mình thời trẻ mà không ngờ đó chính là tư liệu mà chúng tôi đang cần:

- Năm 1954 cũng gần kết thúc chiến tranh rồi, nhưng bộ đội ta ở chiến trường Bạc Liêu còn hành quân liên tục. Trong những anh em chiến sĩ có một anh tên Nguyễn Phong Văn, điềm đạm, tánh nết đàng hoàng lắm. Anh để ý tôi, năm đó tôi đã 28 tuổi.

- Câu chuyện xảy ra ở đâu chị Ba?

- Ở ngã tư Phó Sinh, gia đình tôi làm ruộng và mua bán lặt vặt, cất một căn nhà lá làm tiệm tạp hoá, chị em tôi sống ở đó, cũng là nơi anh Văn nhìn thấy tôi, rồi cậy mai mối hỏi tôi. Ðại đội trưởng của ảnh là anh Trần Văn Ðối, còn anh là Chính trị viên Ðại đội. Ảnh người Bến Tre, từ phà Rạch Miễu vào không xa lắm, gia đình người chị thứ Năm của ảnh ở đó.

Chị Ba rót nước mời chúng tôi, bàn tay của một bà lão gần 80 tuổi mà vẫn dịu dàng, ngón tay thon thả. Ngày còn trẻ, khi cầm tay từ giã người yêu đi tập kết, bàn tay chị ấm áp đến dường nào.

- Mẹ chiến sĩ là má anh Ðối, sang hỏi tôi cho anh Văn, bảo ảnh lớn hơn tôi 4 tuổi. Nhưng tôi thấy ảnh già, sợ ảnh có vợ con rồi, tôi gạn lại kỹ rồi mới ưng. Nghe tôi đồng ý, ảnh mừng lắm, xin làm đám hỏi rồi mới đi tập kết, ý ảnh là làm vậy cho chắc. Tôi hứa với anh một lời danh dự. Với tôi, lời hứa như vàng ngọc, mưa nắng không mờ phai. Anh cứ yên lòng cùng đồng đội đi tập kết, tôi chờ anh, cho dù không phải 2 năm hay 18 tháng, mà lâu dài hơn cũng chờ.

- Nhưng sao em không chịu làm đám hỏi? Anh Văn hỏi tôi.

 - Vì anh đi rồi, tôi còn ở lại miền Nam, đêm ngày đấu tranh với giặc. Không nên để chúng biết gia đình mình có người đi tập kết, công tác mới thuận lợi hơn - Tôi trầm tĩnh trả lời câu anh hỏi. Thấy anh cảm thông, tôi nói tiếp:

- Có dịp, anh gửi thư về báo tin ngày anh xuống tàu, để tôi và Út (em gái chị Ba) tiễn đưa anh.

Chị Ba Xuyến đang lùi sâu vào kỷ niệm... Cách đây 50 năm chị hãy còn xinh đẹp với gương mặt trái xoan phúc hậu, mắt biếc, đôi mày mịn màng, rực rỡ. Thấy chị có nhan sắc, tánh tình mềm mỏng, nhanh nhẹn, có bao đám đàng trai giàu đem sính lễ đến nói, chị vẫn một mực khước từ. Không hiểu sao chị lại ưng anh Văn...

Câu hỏi giản đơn vậy, mà cho tới bây giờ, sau nửa thế kỷ đợi chờ đến lỡ làng duyên phận, chị trở thành một bà lão cô đơn với đứa con nuôi... chị vẫn chưa tự trả lời được.

- Anh Trần Văn Ðối, người thay mặt đơn vị, cũng là người chuyển thư, khăn tay và ảnh của anh Văn cho tôi trước khi các anh lên đường (những kỷ vật đó giờ không còn, má anh Ðối cũng đã qua đời từ lâu). Chị Ba bần thần lấy những bức thư cũ, mực paker đã phai màu trên giấy vàng ố, rách rã theo lằn xếp. Trong đó chứa bao nhiêu lời dặn dò, thề hẹn đấu tranh đòi địch thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ để sớm thống nhất nước nhà, cùng nhau sum họp trong niềm vui dân tộc.

Không ai ngờ, những bức thư tình thế hệ trẻ thời tập kết mang nội dung lý tưởng sâu xa và cháy bỏng tình yêu Tổ quốc như vậy. Với những gì anh Văn ghi trong đó, sau khi xa vắng anh, phải sống giữa quân thù, đã trở thành sức mạnh đấu tranh của chị Xuyến. Ðến tuổi 78, già nua, cô quạnh, mà chị còn bảo trọng những vật kỷ niệm, trong đó có tấm ảnh anh Văn bằng ngón tay cái, bay mất chân dung, chỉ còn phía sau mấy chữ “Ðể lại em yêu” lờ mờ với chữ ký tên dành cho một người đọc... làm chúng tôi xúc động, rưng nước mắt. Kết quả mối tình từ thời con gái, sau cuộc chia ly ở cửa sông tập kết, chị Ba Xuyến chỉ còn lại những vật này! Trả lời câu hỏi chúng tôi, chị nói về những ngày ở lại miền Nam:

- Tiễn anh Văn đi rồi, tôi về căn nhà cũ, bán tạp hoá và len lỏi hoạt động ở hội đồng hương chính xã liền vách với nhà tôi, chúng nó bàn tính việc gì tôi nghe rõ, liền báo cáo cho các anh chị biết. Bữa đó, nghe một tên cảnh sát xã nói: “Vãn hát, đi bao bắt đám Việt cộng nằm vùng ở đây”. Hồi đó có gánh hát bội, tụi nó mướn vào hát. Chờ hát xong, nó đi bao bắt gánh y tế của ta ở sau mương lộ (thuộc ấp Phước Trường, xã Phước Long). Vậy là tôi lén mở cửa không cho tụi nó thấy, tôi lội qua mương lộ, bò tới căn cứ bí mật, cho các anh chị hay để rút đi ngay. Tôi trở về, leo lên tới cửa sau, té xỉu vì quá lạnh. Tụi giặc vào sau tôi, thấy cứ không còn ai, chúng chửi thề, khen Việt cộng giỏi như thánh!

Như lời thư người yêu căn dặn, chị Xuyến biến nỗi nhớ thương thành tinh thần công tác. Nhưng chị có yên đâu, thấy chị đẹp quá, tên M, Chủ tịch Hội đồng Hương chính xã si mê, đeo sát chị ngày đêm. Nó bảo chị làm vợ bé cho nó, chị sẽ có tất cả. Chị trả lời với nó:

- Ông chủ tịch kêu vợ ông lại đây nói cưới tôi đàng hoàng thì tôi ưng.

Chị biết tên M háo sắc này làm gì dám kêu vợ nó đến. Nó bí lối, song vẫn bám theo chị. Một tối nó rủ thằng trung uý Biết đến nhà chị kêu cửa: “Cô Ba ơi cô Ba. Cô bán tôi gói thuốc”. Tôi biết rõ chúng muốn gì. Tôi cài chặt cửa, bắc ghế leo lên quăng hai gói thuốc ra ngoài, nhè trúng đầu tên trung uý Biết. Nó chửi thề và gầm gừ như con cọp bị thương. Nó chửi thằng M: "ÐM! Vậy mà nói nó chịu rồi".

Chị Ba nói tới đây, nhìn chúng tôi, cười đắc thắng như chuyện mới xảy ra. Ðôi mắt chị ánh lên niềm vui trong trẻo. Những lúc đó, chị yêu anh Văn đến khôn cùng. Thằng M và tên trung úy Biết làm gì chiếm được chị. Chị táng hai gói thuốc vào đầu nó như chơi...

- Tên Biết gầm gừ rồi đi, thằng M vào cơ quan xã của nó, ở sát vách tôi, kêu tên tôi, đập bàn đập ghế chửi mắng tôi làm bà gì mà dám khinh thường nó... “Gia đình cô là Việt cộng, cô có quan hệ Việt cộng, tôi nắm hết trong tay, coi chừng tôi nghen”. Nó hăm he đủ điều. Tôi bên này vách giả bộ sợ, năn nỉ nó cho qua cơn... Rồi sau đó còn tên phó quận tên Liêm ở Chắc Băng, gửi thư kêu tôi lên ngay, vì có đơn tố cáo anh Mười Vị và cậu tôi (hai người rinh thùng thăm bầu quốc hội chế độ Diệm quăng xuống sông, bị bắt) là Việt cộng, kêu tôi lên lãnh. Tôi lại phải tìm cách đối phó... Tôi viết cho ông ta một bức thư, nhờ ông xét thả những người vô tội và từ chối gặp ngay, hẹn khi khác...

Là một cô gái có nhan sắc, chị Ba phải ngoan cường lắm mới giữ tròn chung thuỷ với người yêu, để buổi tiễn đưa nhau ở bến Sông Ðốc còn mãi là kỷ niệm tươi đẹp, nơi anh bước lên tàu, nhìn lại chị, vẫy tay. Nhưng rồi đất nước chia cắt lâu dài, dù vẫn yêu người vợ chưa cưới ở miền Nam khói lửa, anh vẫn phải lập gia đình ở ngoài ấy.

Giọng chị bỗng chùng xuống, xa xăm:

- Khi tôi biết chuyện này cũng có buồn. Ðó là năm tôi 50 tuổi, có nhiều bạn trai muốn kết đôi vì cũng lỡ làng như tôi nhưng tôi quyết định ở vậy với đứa con nuôi. Tôi coi anh Văn như người bạn tốt, vì hoàn cảnh thôi. Còn tôi, tôi sống trọn lời hứa, sống với kỷ niệm cho đến cuối đời mình. Như mấy cậu thấy đó, tôi đã thành bà lão 78 tuổi rồi còn gì.

Chị Ba Xuyến lại nhìn chúng tôi, đứa nào cũng rưng nước mắt, kính mến một tấm lòng son sắt “thiết thạch thuỷ chung”. Sau này chị có gặp anh Văn một đôi lần, không phải để bắt đền cuộc đời mình hay hờn trách, mà để an ủi anh, đừng ái ngại gì... Ðứa con nuôi giúp chị thêm nghị lực, bởi nó mang họ anh, nhờ nó mà chị thêm can đảm, thêm lý lẽ để vượt hết thảy cạm bẫy quân thù, giữ cho mình trong suốt như một tấm gương...

 

Nguyễn Bá

 

Trang sử Cà Mau thời kháng chiến năm 1973

Sau Hiệp định Paris năm 1973, về mặt đấu tranh công khai, Ban Liên hợp quân sự 4 bên khu vực 4 (Quân khu 9), do đồng chí Hoàng Hà làm Trưởng ban, đồng chí Phạm Văn Liêm làm Phó ban, Tổ liên hợp Cà Mau do đồng chí Tống Kỳ Hiệp và đồng chí Trịnh Thành Kế phụ trách đã đấu tranh chống lại sự vi phạm Hiệp định của địch trong khu vực. Ta buộc địch công nhận vùng tự do của ta ở Cà Mau và đã thực hiện việc trao trả tù binh ở Kinh Ba, xã Quách Phẩm, huyện Ngọc Hiển (Tư Kháng), Ðầm Dơi ngày nay.

Về “Đất thép thành đồng”

Thiết thực các hoạt động chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025), kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3/1931-26/3/2025), ngày 30/3, đồng chí Nguyễn Hồ Hải, Bí thư Tỉnh uỷ, cùng đoàn cán bộ Tỉnh đoàn đã có chuyến hành trình giáo dục truyền thống, về nguồn tại "Ðất thép thành đồng": Củ Chi - TP Hồ Chí Minh.

“Chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú - Dấu xưa một thời

Trong hành trình tìm về quá khứ, có những việc tuy ngoài sách sử, nhưng lại đậm sâu trong ký ức nhiều người. Ðó cũng là câu chuyện về “chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú, nay thuộc ấp Sở Tại, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước.

Những ngày tháng Ba của mùa Xuân đại thắng

Nửa thế kỷ đã qua kể từ mùa Xuân đại thắng 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bắc - Nam sum họp một nhà, đất nước thống nhất, kết thúc thắng lợi vẻ vang cuộc kháng chiến của dân tộc chống lại đế quốc sừng sỏ và bè lũ tay sai. Tháng 3/1975 là “đêm trước” của ngưỡng cửa chiến thắng. Cục diện chiến trường chuyển biến mau lẹ; không khí cách mạng dâng cao sục sôi; cùng với đó là sự lãnh đạo, chỉ đạo bằng tất cả ý chí, niềm tin, sức mạnh của Đảng ta, để toàn dân tộc cùng nhau kề vai chung sức, chớp lấy thời cơ, làm nên một chiến thắng vang dội, hào hùng, bất tử.

Thân thương hai tiếng Cà Mau

Cà Mau không chỉ là điểm cuối của đất nước, nơi ai cũng mong một lần được ghi dấu bước chân mình tại cột mốc toạ độ, mà còn là vùng đất để lại trong tim nhiều người những tình cảm khó quên.

Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng - Lịch sử không thể lãng quên

Tôi đồng tình với ông Sáu Sơn (ông Ðỗ Văn Nghiệp, tác giả chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh “Ðiều tra, sưu tầm chứng tích tội ác Mỹ - Nguỵ tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng” cách đây 20 năm), rằng: “Khép lại quá khứ, không có nghĩa là lãng quên quá khứ. Bài học đúc kết từ quá khứ là bài học bằng xương máu, sẽ có nhiều bổ ích cho hiện tại và tương lai”.

Bến Dựa một lần về

Bến Dựa chỉ là một đoạn sông ngắn, hằng ngày cần mẫn làm người trung chuyển đưa nước lớn về ngã ba Cái Đuốc, ngọn Cái Ngay; tiễn nước ròng ra Cái Nháp, đổ ra ngã ba Tam Giang, xuôi về biển cả. Khu rừng bên bờ Đông Bến Dựa nơi cơ quan Huyện uỷ Tư Kháng (Đầm Dơi ngày nay), làng rừng Huỳnh Ngọc Điệp tồn tại.

Chiều Sài Gòn

Tựa bài viết “Chiều Sài Gòn” nghe như chơi vơi, rất xưa, bởi Sài Gòn - Gia Ðịnh đã có hơn 300 năm tuổi, thì đồng nghĩa cũng có hơn một triệu buổi chiều. Nhưng “Chiều Sài Gòn” tôi viết đây chỉ là chiều 30/4/1975, buổi chiều đầu tiên “Sài Gòn ơi ta đã về đây” như lời bài hát một thời có sức hút mạnh mẽ.

Huyền thoại biệt động thành Cà Mau

Thị xã Cà Mau những năm cuối thập niên 1950, dưới chế độ Mỹ - Diệm, không khí ngột ngạt bởi những cuộc càn quét, bắt bớ. Đám cảnh sát mật vụ, lính bảo an lùng sục khắp nơi, ráo riết truy lùng những người kháng chiến cũ, những người mà chúng nghi là "Việt cộng nằm vùng".

Thăm địa chỉ đỏ

Di tích Hồng Anh Thư Quán (số 43, đường Phạm Văn Ký, Phường 2, TP Cà Mau) là một trong những di tích lịch sử hiếm hoi ghi dấu chặng đường cách mạng của người Cà Mau trước năm 1930. Hồng Anh Thư Quán được công nhận Di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia ngày 4/8/1992.