Nhà ở cách bờ kinh cả chục công đất, con mương phèn đã cạn từ lâu nên phải dùng trâu kéo mấy bao lúa và chiếc xuồng ba lá bằng cộ xuống con kinh cạn. Hai mẹ con chống từng nhát dầm đẩy xuồng lúa một cách nặng nhọc, cả buổi mới tới một khúc nước sâu. Má gây chèo còn tôi cầm dầm bơi tiếp, đi hơn 2 tiếng đồng hồ, phải sang một con đập mới tới được nhà máy chà gạo.
Cái nắng chang chang dội xuống từng thớ đất trên cánh đồng vàng màu cỏ cháy và gốc rạ, mấy cái đìa trong vườn chuối giờ chỉ còn vài tấc nước. Chưa có dấu hiệu chuyển mùa nên việc chuẩn bị nước ngọt giờ đây là vấn đề cấp bách. Nhưng dẫu sao cũng còn có nguồn để khai thác, đó là những giếng nước khoan trong xóm. Dù bơm bằng mô-tơ nhưng lượng nước rất ít, kiên trì thì cũng hứng được vài thùng trong một giờ. Cái cảnh xếp hàng đợi đến lượt hứng nước ở mấy cây nước có máy bơm làm tôi nhớ lại những mùa hạn của ngày xưa. Khi dưới kinh nước chỉ còn chừng 2 gang tay, nhà hết gạo chúng tôi phải chở lúa đến nhà máy chà cách đó vài cây số. Nghĩ đến việc vận chuyển mấy bao lúa từ nhà đến đó thật là ngán ngẩm nhưng không còn cách nào khác.
Nhà ở cách bờ kinh cả chục công đất, con mương phèn đã cạn từ lâu nên phải dùng trâu kéo mấy bao lúa và chiếc xuồng ba lá bằng cộ xuống con kinh cạn. Hai mẹ con chống từng nhát dầm đẩy xuồng lúa một cách nặng nhọc, cả buổi mới tới một khúc nước sâu. Má gây chèo còn tôi cầm dầm bơi tiếp, đi hơn 2 tiếng đồng hồ, phải sang một con đập mới tới được nhà máy chà gạo.
Chúng tôi phải nhờ mấy chú bốc vác mới đem mấy bao lúa lên bờ được. Tại đây hàng chục người đang đợi tới lượt mình, có người ngủ lại qua đêm nên hầu hết mệt mỏi, phờ phạc. Thời kỳ bao cấp, trăm cái khó bao vây, không có hàng quán gì nên người ta đem theo dụng cụ để nấu ăn. Ngặt nhất là nước uống, chia sẻ thứ gì cũng không quý bằng nước, dù ít ỏi nhưng rồi ai cũng “qua bữa” từ những sự san sẻ này.
Hơn một ngày chịu đựng cái nóng bức, bụi bặm, mẹ con tôi cũng chà được lúa và mừng rỡ quay về, nhưng đã chạng vạng, chèo đến đập thì trời đã tối. Những ánh đèn dầu quơ qua quơ lại, tiếng người lao xao, tiếng trẻ con khóc, tiếng gà vịt kêu inh ỏi trên mặt đập… Nhiều người giúp một người và cứ thế xuồng lần lượt qua đập. Gần đến sáng, mẹ con tôi mới tới được nhà, tôi chạy cả chục công đất từ bờ kinh lên nhà cho ba tôi hay để đem trâu cộ xuồng và gạo.
Thấm thoát mà đã hơn 40 năm, con kinh cạn ngày xưa giờ được nạo vét sâu và rộng, 2 bên bờ là lộ bê-tông xe cộ nườm nượp, nhà cửa khang trang, hàng quán mọc lên san sát, hệ thống điện nước phủ kính các ấp trong xã. Dấu tích ngày xưa không còn, nhưng những năm tháng nhọc nhằn mà tình nghĩa thì không thể nào quên.
Mùa khô lại đến, đồng ruộng nứt nẻ, cỏ cây úa vàng, nước nôi có khan hiếm nhưng chắc không bằng cái cảnh ngày xưa. Ðời sống ở nông thôn giờ đâu khác gì thành thị, tàu xe ngày mấy lượt lưu thông nên bà con cần gì cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày đều có. Nhớ lại những nỗi nhọc nhằn năm xưa mới cảm nhận được giá trị của cuộc sống yên bình, sung túc hôm nay. Nếu không có ngày toàn thắng 30/4, làm sao người dân được hưởng độc lập, hạnh phúc như thế!
Thời nào cũng có cái khó của nó, nhưng tin rằng, với lối sống tình nghĩa, với sự chung sức, chung lòng thì những khó khăn rồi cũng vượt qua, nông thôn ngày càng sung túc.
Xin nghiêng mình trước những người con ưu tú đã ngã xuống cho dân tộc trường tồn, cho mỗi công dân đều hưởng thụ những gì tốt đẹp nhất./.
Lê Ngọc