ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 28-4-25 19:14:12
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nhớ ngày tiếp quản Cà Mau

Báo Cà Mau Ngày 30/4, ngày lịch sử trọng đại của dân tộc, ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam khỏi ách thống trị của bọn xâm lược và bè lũ tay sai, ngày mà triệu triệu người Việt Nam vỡ oà hạnh phúc.

Ông Trần Công Bình cùng tấm ảnh thời trai trẻ.

Nhớ lại những ngày lịch sử ấy, ông Trần Công Bình (Út Bình), Ðại tá quân đội, nguyên Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện Thới Bình, lúc đó là Xã đội trưởng xã Lương Thế Trân, vừa được phân công làm Chính trị viên Ðại đội 4, thuộc Tiểu đoàn 9 huyện Cái Nước mới được thành lập, để chuẩn bị tiếp quản huyện Cái Nước và tỉnh Cà Mau, kể:

... Ngày 28/11/1974 âm lịch, xã Lương Thế Trân được giải phóng, lúc đó Út Bình làm Xã đội trưởng Lương Thế Trân. Theo chỉ đạo của cấp trên, để chuẩn bị tiếp thu huyện Cái Nước, tại xã Tân Hưng, huyện đã huy động lực lượng du kích của các xã trong huyện thành lập Tiểu đoàn 9, do đồng chí Sáu Dũng làm Tiểu đoàn trưởng, huấn luyện tại Xẻo Trê chuẩn bị cho giải phóng huyện và tiếp thu Nam Cà Mau.

Du kích xã Lương Thế Trân lúc đó do Út Bình làm Xã đội trưởng được biên chế thành Ðại đội 4 của Tiểu đoàn 9, do đồng chí Hai Tiết (Nguyễn Thành Tiết, Ðại tá, nguyên Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện Cái Nước) làm Ðại đội trưởng, Trần Công Bình làm Chính trị viên đại đội, nhiệm vụ của Ðại đội 4 là kiểm soát từ Hãng nước mắm Vĩnh Hương (ngang Lộ 16 lúc đó), tới Thạnh Ðiền (hiện nay là Ấp 4, xã Lý Văn Lâm).

Ðêm 29/4, Ðại đội 4 được phân công trực tiếp tiếp quản từ cầu Phán Tề đến Bến Hải quân của nguỵ, trong đó có Trung tâm chiêu hồi. Nhiệm vụ tiếp quản do Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh (nay là Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh) điều hành. Ðúng 3 giờ sáng 30/4/1975 phải đưa quân bám sát Bến Hải quân và Trung tâm chiêu hồi. Hoả lực của đại đội lúc đó được trên trang bị gồm 1 khẩu cối 82, 1 khẩu đại liên 30, vũ khí của đại đội chỉ có súng tiểu liên và vài khẩu M79. Tương quan lực lượng lúc đó, quân số ta chỉ có 40 người, còn phía địch có trên 300 tên, được trang bị vũ khí hiện đại đầy đủ, có cả tàu chiến, trọng pháo.

Khi đại đội đã đưa quân vào đúng vị trí, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ thì có lệnh điều động, rút quân ra khỏi vị trí vì bọn nguỵ ở Ðầm Dơi sẽ rút quân về hướng cầu Phán Tề. Theo lệnh, đại đội rút quân về kênh Rạch Rập. Ðúng 5 giờ 30 phút sáng 30/4, xác định bọn nguỵ quân ở Ðầm Dơi chạy về hướng Hoà Thành, Tỉnh đội ra lệnh điều quân trở lại vị trí cũ. Lúc đó, trời đã rạng sáng, ta đưa quân vào vị trí gần như công khai, nhưng bọn nguỵ vẫn ở yên vị trí trong doanh trại, không phản ứng gì. Ðến khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, bọn nguỵ vẫn ở yên trong doanh trại, thỉnh thoảng có vài tên lính đi qua cầu Phán Tề để đi chợ. Ðại đội đưa 3 chiến sĩ ra canh ở cầu Phán Tề, đón bắt được 1 tên lính nguỵ, kêu chúng đem thư về cho bọn chỉ huy đề nghị cử sĩ quan ra đón quân giải phóng và tổ chức bàn giao.

Sáng sớm ngày 1/5/1975, quân ta tiến chiếm các cơ sở của địch và hoàn toàn làm chủ tỉnh lỵ An Xuyên (Cà Mau). Ảnh tư liệu

Sáng sớm ngày 1/5/1975, quân ta tiến chiếm các cơ sở của địch và hoàn toàn làm chủ tỉnh lỵ An Xuyên (Cà Mau). Ảnh tư liệu

Bọn nguỵ đã cử Ðại uý Bình, Giang đoàn trưởng Giang đoàn hải quân; Ðại uý Út phụ trách binh chủng bộ binh hải quân, liên quan Trung tâm chiêu hồi ra đón và mời bộ đội giải phóng vào để nhận bàn giao khu vực và vũ khí.

Lúc đó, Út Bình là Chính trị viên đại đội nên được phân công cùng 1 bảo vệ và 3 chiến sĩ vào nhận bàn giao. Ông phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng chiến sĩ, lúc vào sở chỉ huy của nguỵ, Thiếu tá Hưng ra đón (Thiếu tá Hưng là con Hào Xựng, ở khu vực Bình Hưng, Cái Ðôi Vàm, là thành phần ác ôn). Chúng chuẩn bị cà phê, nước giải khát mời đoàn, nhưng đoàn từ chối và yêu cầu bàn giao. Thiếu tá Hưng kêu Ðại uý Huỳnh lấy chìa khoá và dẫn chiến sĩ bàn giao các kho. Út Bình yêu cầu sĩ quan nguỵ ở lại, nhưng khi nhận bàn giao xong các kho trở lại thì Thiếu tá Hưng đã bỏ trốn. Sau khi làm công tác trấn an tư tưởng của nguỵ quân, ông cho tất cả lính nguỵ về nhà, chờ thông báo của địa phương sẽ ra trình diện. Quân giải phóng thì ở nhà dân và ở tạm các mái che.

Ông nhớ lại, chiều 30/4, nhiều người dân ở Cái Nước bơi xuồng ba lá ra Cà Mau để nhìn ngắm chợ Cà Mau, nơi mà chỉ mấy ngày trước chẳng ai dám nghĩ mình sẽ được đặt chân tới đây. Không chỉ người dân mà các chiến sĩ giải phóng quân hầu hết cũng bỡ ngỡ, vì đây là lần đầu tiên ra chợ Cà Mau, tất cả đều lạ lẫm. Nhiều lão nông ra tìm con cái mình là bộ đội giải phóng ra tiếp quản Cà Mau, có quen với mấy anh em trong đại đội nên đến rủ anh em ra quán uống cà phê, các chiến sĩ từ chối và nói rằng mấy chú tiền đâu mà đãi bộ đội, nhiều chú vui vẻ cho biết, đã kêu hàng xáo bán lúa lấy tiền ra Cà Mau chơi cho biết. Vào quán kêu cà phê, chủ quán đem cà phê phin ra, hầu hết đều không biết uống thế nào, cứ ngồi nhìn, có người nếm thử rồi lắc đầu, lè lưỡi, rồi trả tiền ra về...

Ấy vậy mà đã 50 năm, từ chàng trai mới 30 tuổi, nay đã ở tuổi U80, nhớ lại những kỷ niệm xưa, ông không khỏi bùi ngùi, nhớ đồng đội, thương những người dân một đời chịu thương chịu khó, sống dưới đạn bom, tới ly cà phê cũng chưa từng uống... Thế đấy, bây giờ thì nông dân lướt điện thoại, sử dụng công nghệ 4.0, có ai còn nhớ những ngày cực khổ, cận kề cái chết; bao nhiêu người nhớ những đồng đội đã ngã xuống vì độc lập, tự do cho quê hương, đất nước. Cầm bức ảnh ngày xưa, ông âm thầm rơi nước mắt, những đồng đội trong ảnh đã hy sinh gần hết...

 

Huỳnh Châu

(ghi theo lời kể của ông Trần Công Bình)

 

50 năm - Bản hùng ca bất diệt

“Đại thắng mùa xuân năm 1975 là bản anh hùng ca bất diệt, là chiến công vĩ đại nhất trong lịch sử hào hùng dựng nước và giữ nước của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Chiến thắng đó đã chấm dứt hơn 100 năm đô hộ, xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc”, đồng chí Nguyễn Hồ Hải - Bí thư Tỉnh Uỷ nêu tại buổi Họp mặt Kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ngày 26/4.

"Báu vật" của gia đình

Gần 30 năm qua, kể từ khi người cha thân yêu qua đời, ông Nguyễn Thanh Phong (Ba Phong), sinh năm 1951, ngụ Khóm 2, thị trấn Thới Bình, huyện Thới Bình, vẫn cất giữ cẩn thận những "báu vật" của gia đình. Ðó là những tấm huân chương quý giá do Ðảng, Nhà nước tặng thưởng cha ông - cụ Nguyễn Văn Lỳ, ghi nhận thành tích đóng góp trong sự nghiệp cách mạng, bảo vệ Tổ quốc.

Nơi nhắc nhớ, tri ân những anh hùng

Ðối với người dân ở thị trấn Rạch Gốc, huyện Ngọc Hiển cũng như người dân Cà Mau, Di tích Bến Vàm Lũng là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống, cũng là nơi thể hiện lòng tri ân những người anh hùng hiên ngang mở đường, góp sức làm nên những chiến công hiển hách. Ðể ngày nay, trước thời khắc đón nhận Bằng xếp hạng Di tích Lịch sử Quốc gia đặc biệt Ðường Hồ Chí Minh trên biển, người dân Cà Mau hướng về đây với cảm xúc tự hào và lòng biết ơn sâu sắc.

Về nơi con tàu đầu tiên cập bến

Những ngày tháng Tư lịch sử này, giữa niềm vui chung hướng tới kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, lòng người dân Rạch Gốc - Tân Ân lại rộn ràng hơn, bởi cái tin bến Vàm Lũng chuẩn bị đón nhận bằng Di tích Quốc gia đặc biệt. Với họ, những con người của vùng đất đã góp phần cùng Phan Ngọc Hiển làm nên Khởi nghĩa Hòn Khoai lịch sử năm 1940 này, ký ức một thời từng gắn bó ruột rà, máu thịt với Ðoàn 962 như sống dậy, đằm thắm yêu thương, chen lẫn tự hào.

Ðời người chỉ sống một lần

Ông Ba Lành (Trần Ngọc Lành, sinh năm 1942, ngụ ấp Rạch Lăng, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời), thương binh 4/4, tâm tình rằng: “Tôi may mắn còn sống, đó là hạnh phúc lớn lao vì còn được tận hưởng thành quả hoà bình, thống nhất, những điều mà nhiều đồng chí, đồng đội khác không có được”...

Tri ân miền Ðất thép

Mỗi “địa chỉ đỏ” trên mảnh đất hình chữ S đều gắn liền với sự kiện, mốc son lịch sử trong quá trình đấu tranh của quân và dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây không chỉ là nơi giáo dục truyền thống cách mạng dân tộc, khơi dậy tinh thần yêu nước cho lớp lớp thế hệ mai sau, mà còn thể hiện trách nhiệm, lòng biết ơn của thế hệ hôm nay với những hy sinh to lớn của cha ông cho nền độc lập, tự do của dân tộc.

Trang sử Cà Mau thời kháng chiến năm 1973

Sau Hiệp định Paris năm 1973, về mặt đấu tranh công khai, Ban Liên hợp quân sự 4 bên khu vực 4 (Quân khu 9), do đồng chí Hoàng Hà làm Trưởng ban, đồng chí Phạm Văn Liêm làm Phó ban, Tổ liên hợp Cà Mau do đồng chí Tống Kỳ Hiệp và đồng chí Trịnh Thành Kế phụ trách đã đấu tranh chống lại sự vi phạm Hiệp định của địch trong khu vực. Ta buộc địch công nhận vùng tự do của ta ở Cà Mau và đã thực hiện việc trao trả tù binh ở Kinh Ba, xã Quách Phẩm, huyện Ngọc Hiển (Tư Kháng), Ðầm Dơi ngày nay.

Về “Đất thép thành đồng”

Thiết thực các hoạt động chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025), kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3/1931-26/3/2025), ngày 30/3, đồng chí Nguyễn Hồ Hải, Bí thư Tỉnh uỷ, cùng đoàn cán bộ Tỉnh đoàn đã có chuyến hành trình giáo dục truyền thống, về nguồn tại "Ðất thép thành đồng": Củ Chi - TP Hồ Chí Minh.

“Chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú - Dấu xưa một thời

Trong hành trình tìm về quá khứ, có những việc tuy ngoài sách sử, nhưng lại đậm sâu trong ký ức nhiều người. Ðó cũng là câu chuyện về “chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú, nay thuộc ấp Sở Tại, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước.

Những ngày tháng Ba của mùa Xuân đại thắng

Nửa thế kỷ đã qua kể từ mùa Xuân đại thắng 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bắc - Nam sum họp một nhà, đất nước thống nhất, kết thúc thắng lợi vẻ vang cuộc kháng chiến của dân tộc chống lại đế quốc sừng sỏ và bè lũ tay sai. Tháng 3/1975 là “đêm trước” của ngưỡng cửa chiến thắng. Cục diện chiến trường chuyển biến mau lẹ; không khí cách mạng dâng cao sục sôi; cùng với đó là sự lãnh đạo, chỉ đạo bằng tất cả ý chí, niềm tin, sức mạnh của Đảng ta, để toàn dân tộc cùng nhau kề vai chung sức, chớp lấy thời cơ, làm nên một chiến thắng vang dội, hào hùng, bất tử.