ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 1-7-25 08:18:48
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Học sinh miền Nam đặc biệt

Báo Cà Mau Trong ký ức của các thế hệ học sinh miền Nam (HSMN) tập kết ra Bắc, luôn có hình ảnh hai gương mặt rất đặc biệt, đó là hai chị em người da đen Irene và Monique. Trong suốt những năm tháng học tập, bạn bè chỉ biết họ được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nuôi dưỡng, còn gốc gác cụ thể thì ít người rõ.

Cuộc tìm kiếm sau hơn 40 năm

Theo ông Lê Văn Tân, cựu HSMN, Irene và Monique là con ông Ernest Ouandie, nhà cách mạng Cameroon. Cha mẹ họ cùng hoạt động đấu tranh giải phóng đất nước khỏi ách thống trị thực dân Pháp. Sau này ông được truy phong anh hùng dân tộc.

Khoảng năm 1960, bà Nguyễn Thị Thập, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, sang Châu Phi dự hội nghị về phụ nữ. Có lẽ lường trước những hiểm nguy, nên vợ chồng nhà cách mạng Cameroon này tin tưởng gửi hai đứa con nhờ bà mang về Việt Nam nuôi dưỡng. Lúc đó hai chị em độ từ 3-5 tuổi.

Irene và Monique (mặc váy trắng, hàng đầu bên trái) thuở nhỏ. Người đứng giữa mặc áo dài sậm là bà Năm Ninh (vợ nhà yêu nước Nguyễn An Ninh), Giám đốc Trại Nhi đồng miền Nam. (Ảnh Ban Liên lạc HSMN cung cấp).

Irene và Monique (mặc váy trắng, hàng đầu bên trái) thuở nhỏ. Người đứng giữa mặc áo dài sậm là bà Năm Ninh (vợ nhà yêu nước Nguyễn An Ninh), Giám đốc Trại Nhi đồng miền Nam. (Ảnh Ban Liên lạc HSMN cung cấp).

Về Việt Nam, hai chị em được gửi vô Trại Nhi đồng miền Nam, do bà Năm Ninh (vợ nhà yêu nước Nguyễn An Ninh) làm Giám đốc. Về sau, hai chị em được cho vào học tại các trường HSMN.

“Khi đó ai cũng nhỏ, lại trong điều kiện rất bí mật nên chỉ nghe loáng thoáng hai bạn này là con Tổng thống Congo là ông Lumumba. Gốc gác thật thì sau này mới biết”, ông Tân phân trần.

Sau ngày đất nước thống nhất, hai chị em được Nhà nước Việt Nam đưa sang Cuba học đại học, rồi họ dần mất liên lạc với bạn bè ở Việt Nam. Khi đã tuổi xế chiều, những cựu HSMN bắt đầu hành trình tìm lại họ. Không biết gì về nhân thân, không một dòng địa chỉ, việc tìm kiếm hết sức khó khăn.

Hy vọng nhen lên từ một bức thư tiếng Pháp do cha Irene gửi con, ký tên là Ernest Ouandie - cái tên trùng khớp với vị anh hùng dân tộc Cameroon bị hành quyết năm 1971 vì đấu tranh cho độc lập dân tộc. Bức thư được bà Hoàng Thu Hà tìm lại giữa đống kỷ vật cũ. Tuy vậy, thông tin về người anh hùng dân tộc Cameroon này rất ít ỏi.

Không bỏ cuộc, các cựu HSMN đã chia sẻ tin tức qua Facebook nhóm, qua các trang web, các trường đại học ở Cuba và các mạng xã hội khác... Ðồng thời, bằng những mối quan hệ cá nhân, họ nhờ chương trình Như chưa hề có cuộc chia ly, đài BBC, đại sứ quán Việt Nam khu vực Trung Phi hỗ trợ kiếm tìm.

Cuối cùng, họ đã tìm thấy nhau. Irene đang là bác sĩ sản khoa tại Guyana, còn Monique là bác sĩ nhi khoa ở Guadeloupe. Cuộc hội ngộ sau hơn bốn thập kỷ diễn ra trong niềm vui và những giọt nước mắt bùi ngùi...

Xúc động ngày về

Ðầu năm 2017, Monique trở về Việt Nam trong dịp họp mặt kỷ niệm 50 năm HSMN, tại Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ. Trái tim bà vỡ oà trong vòng tay bạn bè cũ.

Bà chia sẻ: “Bản thân mình năm 2015 đã nói với các con, mẹ phải quay về Việt Nam. Lúc đó là 40 năm giải phóng đất nước. Nhưng rồi chưa sắp xếp được. Năm 2016 thì các bạn HSMN tìm được mình. Nó như phép màu. Tất cả xảy ra như ý trời, làm mình xúc động không tả được. Mình khóc suốt cả đêm”.

Từ lần trở lại đầu tiên ấy, Monique đã có thêm ba chuyến trở về quê hương thứ hai này, trong đó có lần cùng chị gái Irene. Chị em bà được bạn bè đưa thăm nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người quen cũ. Lần trở về vào tháng 2 vừa qua, Monique đã đi dọc dài đất nước, xuống tận mũi Cà Mau.

Bà Monique thích thú chụp ảnh lưu niệm cùng bè bạn bên biểu tượng con cua tại Khu Du lịch Mũi Cà Mau.

Bà Monique thích thú chụp ảnh lưu niệm cùng bè bạn bên biểu tượng con cua tại Khu Du lịch Mũi Cà Mau.

Bà Ðỗ Thị Ðông Xuân, Việt kiều Hungary (cũng là HSMN), chia sẻ: “Tôi và Monique hẹn nhau về Việt Nam nhân kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Vì Monique chỉ có thể sắp xếp được thời gian sau Tết nên về vào tháng 2, không đợi đúng dịp 30/4”.

Bà Châu Nhật Sinh (HSMN) cũng cho biết, lần về này Monique đề xuất đi thăm các di tích, các vùng kháng chiến cũ. Vì cha Monique cũng là chiến sĩ chiến đấu cho độc lập dân tộc, Monique có sự đồng cảm và muốn hiểu biết hơn về lịch sử đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.

Tại Cà Mau, Monique rất xúc động khi nghe kể về rừng tràm U Minh, rừng đước Năm Căn một thời từng là căn cứ địa cách mạng. Bà cũng có được một trải nghiệm khó quên khi đi ca nô trên sông nước Cà Mau đến tận vùng Ðất Mũi; chụp hình lưu niệm tại cột Mốc toạ độ Quốc gia Mũi Cà Mau, bên rừng đước, tại mũi con tàu...

Cũng trong chuyến về Cà Mau này, qua giới thiệu của các bạn HSMN, Monique biết đến hoàn cảnh khó khăn của cô Ðỗ Thị Bảy (con gái má Lê Thị Sảnh, người bứng cây vú sữa cho má Sảnh gửi ra Bắc biếu Bác Hồ) và đã tặng cô Bảy 10 triệu đồng, để bày tỏ lòng tri ân và chia sẻ.

Bà Monique trao quà thể hiện sự sẻ chia và tri ân đối với cô Ðỗ Thị Bảy (con má Lê Thị Sảnh, người bứng cây vú sữa để má Sảnh gửi ra Bắc biếu Bác Hồ).

Bà Monique trao quà thể hiện sự sẻ chia và tri ân đối với cô Ðỗ Thị Bảy (con má Lê Thị Sảnh, người bứng cây vú sữa để má Sảnh gửi ra Bắc biếu Bác Hồ).

Tình yêu Việt Nam thầm lặng

Dù sống xa Việt Nam hơn 40 năm, Monique vẫn nói tiếng Việt khá tốt. Bên cạnh đó, bà vẫn nhớ ngày 30/4 là Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và có ý định quay về trong dịp kỷ niệm 40 năm. Bà cũng tỏ ý trách cứ khi có người Việt Nam không biết ngày 17/2/1979 là ngày xảy ra chiến tranh biên giới Việt - Trung... Ðiều đó chứng tỏ bà rất quan tâm và coi Việt Nam như quê hương ruột thịt.

Các cựu HSMN kể, những chuyến trở về Việt Nam, Monique đều có các câu chuyện hài hước. Một lần đi thuyền thúng ở Hội An, khi người lái thuyền hỏi bằng tiếng Anh: “Mày từ đâu tới?”, bà đáp bằng tiếng Việt: “Từ Ðà Nẵng”, làm họ hết sức ngỡ ngàng. Hay có lần, ở một khu du lịch khác, khi thấy phụ nữ da đen nhẻm xuất hiện, có người tò mò: “Ê, mày từ đâu tới?”, bà  trả lời: “Từ nước của mày!”, làm ai cũng bật cười vì khá bất ngờ.

Nhưng sau những tiếng cười ấy là tình cảm thiêng liêng bà âm thầm cất giữ. Trên Facebook bà viết: “Tôi khóc khi thấy mấy tấm hình. Tôi nhớ ngôi nhà với người mẹ và gia đình đã mang lại cho tôi cảm giác có một gia đình. Tôi không còn nhớ tên. Nhưng những ngày tháng đó đã tôi luyện sự tồn tại của tôi ngày hôm nay”.

Ðiều bè bạn hãnh diện về Monique và Irene là hồi nhỏ Irene học giỏi các môn tự nhiên, nhất là Toán, bà tham gia nhóm học sinh giỏi Toán của trường. Monique học giỏi các môn xã hội, lại có khiếu hài hước. Irene giỏi may vá, Monique giỏi nấu ăn. 

Khi rời Việt Nam sang Cuba học tập, trong thời gian ngắn mà Monique và Irene đã nỗ lực đạt được rất nhiều thành quả. Chỉ với ít vốn tiếng Pháp, Irene và Monique đã phải học xong tiếng Tây Ban Nha tới trình độ có thể tiếp thu kiến thức y ở bậc đại học và học chuyên sâu. Sau khi ra trường mấy năm, họ đã có đủ trình độ tiếng Anh để được chấp thuận đăng ký hành nghề...

Câu chuyện về Irene và Monique không chỉ là hành trình tìm lại những người bạn cũ, mà còn là bản hoà ca lặng lẽ nhưng đầy xúc động về tình bạn vượt khoảng cách địa lý, vượt thời gian. Ðó cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng nhưng sâu sắc rằng: Khi ta thật lòng đi tìm, chắc chắn sẽ gặp. Khi yêu thương được trao đi, yêu thương sẽ tìm về./.

 

Trang Thăm

 

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến - Tiếng nói của khát vọng độc lập, tự do

Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.