ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 20-9-24 18:42:12
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ðừng để những chính sách kinh tế biển “yểu mệnh” - Bài 2: Nhiều chính sách chưa sát thực tiễn

Báo Cà Mau (CMO) Cùng với Nghị định 67/2014, hơn 10 năm trở lại đây, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách trên lĩnh vực thuỷ sản, trong đó có những chính sách đặc thù cho lĩnh vực khai thác thuỷ sản (một số chính sách hỗ trợ chung). Số lượng chính sách ra đời đã hạn chế, việc tiếp cận, thực hiện, phát huy của ngư dân đối với những chính sách này còn là câu chuyện khó hơn.

Theo thống kê của Sở NN&PTNT, tính từ năm 2010 đến nay, có khoảng 6 chính sách của Trung ương liên quan đến hỗ trợ khai thác thuỷ sản (tỉnh chưa ban hành chính sách riêng nào). Song, trong đó số người dân tiếp cận được (được thụ hưởng) đếm trên đầu ngón tay.

Khó tiếp cận chính sách

Ðầu tiên phải kể đến Quyết định số 48/2010/QÐ-TTg ngày 13/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích, hỗ trợ khai thác, nuôi thuỷ sản và dịch vụ khai thác thuỷ sản trên các vùng biển xa. Khi đó, UBND tỉnh đã phê duyệt danh sách 29 tàu (11 tàu làm nghề lưới vây, 18 tàu làm nghề câu mực) đủ điều kiện hoạt động khai thác thuỷ sản ở vùng biển xa. Tuy nhiên, do ngư trường Cà Mau cách quá xa các vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa và DK1, chi phí tiêu hao nhiên liệu rất lớn, chi phí hỗ trợ nhiên liệu lại không đủ cho việc di chuyển đến vùng biển xa; cùng với đó, đặc điểm ngư cụ, kinh nghiệm của thuyền trưởng lại không đảm bảo, hạn chế khi hoạt động khai thác thuỷ sản ở vùng biển này... nên đến nay vẫn chưa có tàu được hỗ trợ theo quy định.

Cửa biển Khánh Hội, huyện U Minh, với số lượng tàu khá lớn nhưng số ngư dân được tiếp cận chính sách rất hạn hẹp.

Phó giám đốc Sở NN&PTNT Châu Công Bằng nhìn nhận: “Chính sách rất ý nghĩa, vừa mang tính hỗ trợ khai thác biển, vừa bảo vệ an ninh chủ quyền vùng biển Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ có vài trường hợp triển khai nhưng buộc phải dừng lại do không phù hợp thực tiễn khai thác, đánh bắt của địa phương”.

Chính sách “Giảm tổn thất trong nông nghiệp” năm 2013 do Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Quyết định số 68/2013/QÐ-TTg ngày 14/11/2013. Trong đó, ngân sách Nhà nước hỗ trợ lãi suất vốn vay thương mại để mua máy, thiết bị sử dụng trên tàu cá, tàu dịch vụ hậu cần phục vụ đánh bắt xa bờ. Tỉnh Cà Mau khi đó có triển khai nhưng không nhiều. Do quy định về vốn đối ứng và nghề khai thác đối với hoạt động này vốn cao nên ngư dân không mặn mà với chính sách, chỉ có một số trường hợp cải hoán hầm bảo quản, mua sắm thêm trang thiết bị để bảo quản sản phẩm.

Bám nghề khai thác thuỷ sản đã mấy đời, với 3 chiếc ghe biển (2 chiếc lớn vươn khơi), ông Huỳnh Văn Nhật, Khóm 1, thị trấn Sông Ðốc, huyện Trần Văn Thời mấy chục năm bôn ba nghề biển nhưng khó tiếp cận được những chính sách hỗ trợ khai thác thuỷ sản. Ông Nhật giãi bày: “Có năm được hỗ trợ tiền dầu trên 30 triệu đồng (do dầu lên giá) và tiền bảo hiểm (được 2 năm). Ngư dân ở đây còn khó khăn lắm, cũng muốn vay vốn để nâng cấp, sửa chữa tàu ra khơi nhưng nghề biển ví như nghề "bà cậu", lỡ thế chấp tài sản mà làm ăn thất bát thì trắng tay".

Hơn 20 năm làm nghề khai thác biển, nhưng ông Nguyễn Chí Nhân, Ấp 4, xã Khánh Hội, huyện U Minh chưa một lần được hỗ trợ về khai thác thuỷ sản. Hiện ông Nhân có 2 tàu khai thác mực tại cửa biển Khánh Hội. Ông bộc bạch: “Khai thác biển ngày càng khó khăn, nhất là ảnh hưởng dịch Covid-19, giá dầu tăng liên tục nên ngư dân đánh bắt càng gặp khó khăn hơn. Ðã vậy, làm nghề đánh bắt mấy chục năm, nhưng hầu như các chính sách triển khai các ghe lớn mới đủ điều kiện được hỗ trợ, còn các ghe nhỏ gặp nhiều khó khăn thì không được”. Ông Nhân mong muốn cần có nhiều chính sách hỗ trợ hơn nữa để họ có điều kiện hoạt động, ổn định cuộc sống.

Nguồn lợi thuỷ sản ngày càng cạn kiệt, giá cả bán ra sụt giảm, chi phí ra biển tăng khiến các tàu đánh bắt gặp nhiều khó khăn. (Ảnh chụp tại Cảng cá Sông Ðốc, thị trấn Sông Ðốc, huyện Trần Văn Thời).

Không phải chính sách nào cũng… như hoạch định

Thực tế, chính sách không chỉ khó tiếp cận mà khi tiếp cận thủ tục rất rườm rà với hàng loạt quy định, khiến ngư dân không còn thiết tha, mặn mà với những gì mà mình đáng lẽ được thụ hưởng. Ðiều đó lý giải cho việc vì sao ngư dân không quan tâm với chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn theo Nghị định 55/2015 (thay thế, bổ sung Nghị định 41/2010). Dù nguồn vốn được vay tối đa 500 triệu đồng (thay vì khoảng 50 triệu đồng so với nghị định cũ), nhưng ngư dân ít tiếp cận được chính sách này, với lý do thủ tục quy định khá nặng nề. “Mặc dù vay tín chấp nhưng khi triển khai, các ngân hàng bắt buộc có nhiều thủ tục, thậm chí phải kê khai tài sản, chứng minh tài sản... Hầu hết các ngân hàng thương mại được chỉ định triển khai chính sách này không mặn mà”, Phó giám đốc Sở NN&PTNT Châu Công Bằng cho hay.

Ðiều đó cũng xảy ra tương tự với Nghị định số 67/2014, chính sách lớn của Chính phủ. Khi triển khai đòi hỏi các thủ tục quy định chặt chẽ mới được giải ngân. Từ xét duyệt về tay nghề, kinh nghiệm trong khai thác, thủ tục phải xác nhận từ chính quyền cơ sở, tới ngân hàng rồi thành lập các ban thẩm định, rất phức tạp. Ðiều đó được đánh giá là cần thiết, bởi số tiền vay vốn lên đến hàng chục, hàng trăm tỷ đồng. Ðó còn chưa kể đến, trong quá trình thực hiện, một số hộ cố tình lợi dụng chính sách làm cho quá trình triển khai bị chậm.

Ông Châu Công Bằng cho hay, hiện nay chỉ khoảng 15-20% "tàu 67" hoạt động hiệu quả, còn lại không hiệu quả dẫn đến nợ xấu ngân hàng. Mặc dù lãi suất được hỗ trợ nhưng với số tiền lớn, mỗi năm người dân phải trả nợ gốc trên 1 tỷ đồng, nên áp lực trả nợ rất nặng nề. Từ nợ xấu kéo dài, ngân hàng buộc lòng thu hồi vốn qua cơ quan pháp lý khi đã có trường hợp bị khởi tố chờ bán tài sản, một số ít được khoanh nợ chờ xử lý.

Thực trạng này không chỉ do hiệu quả khai thác thuỷ sản giảm sút, mà còn “cộng hưởng” bởi sự thay đổi chính sách của Chính phủ. Sau Nghị định 67/2014, Chính phủ ban hành Nghị định 17/2018, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 67/2014, thay đổi lớn so với nghị định cũ, khiến ngư dân càng điêu đứng.

Chính sách này hầu như “cắt bỏ” mọi hỗ trợ trước đây theo Nghị định 67/2014 cho ngư dân. Trong đó, bãi bỏ chính sách hỗ trợ dịch vụ hậu cần nghề cá (hỗ trợ 400-600 triệu đồng/năm tuỳ công suất). Ðiều này gây khó khăn cho ngư dân, vì dịch vụ hậu cần phục vụ tàu khai thác, 1 chiếc phục vụ nhiều chiếc để giảm bớt chi phí cho đội tàu khai thác trên biển. Ðồng thời, Nghị định 17 cũng giảm mức hỗ trợ bảo hiểm từ 70-90% xuống còn 50%, gây khó khăn cho dân.

Không những vậy, Nghị định 17/2018 còn điều chỉnh chính sách tín dụng cho vay, sửa chữa, đóng mới, nâng cấp tàu. Trước đây, Nhà nước hỗ trợ lãi suất 7% (ngư dân chỉ đóng 2%). Còn Nghị định 17/2018, Nhà nước hỗ trợ 1 lần sau đầu tư. Nghĩa là người dân đóng tàu thì Nhà nước hỗ trợ 1 lần bằng 35%, không lãi suất. Do số tiền bỏ ra 1 lần quá lớn nên người dân không có khả năng, và việc cho vay thương mại đối với khai thác thuỷ sản có rủi ro cao nên từ khi ra đời đến nay, Cà Mau chưa đóng được chiếc tàu nào.

Như vậy, có thể thấy rằng, chính sách lớn, nhân văn, ý nghĩa nhưng khó phát huy hiệu quả, ngoài nguyên nhân từ một bộ phận ngư dân thiếu ý thức trách nhiệm, không đủ năng lực tài chính, trình độ kinh nghiệm quản lý sản xuất khi thụ hưởng chính sách, ngân hàng e dè những rủi ro từ ngành khai thác thuỷ sản, thủ tục rườm rà, ngư dân khó tiếp cận thì phải kể đến bản thân các chính sách có nhiều bất cập, trong quá trình thực hiện các điều kiện thay đổi.

Tuy nhiên, nguyên nhân chính được ông Châu Công Bằng thẳng thắn chỉ ra, đó chính là do khi ban hành chính sách không sát với thực tiễn, bởi đặc điểm ngành nghề vùng miền khác nhau, mà trong quá trình thực hiện không sửa đổi kịp thời, dẫn đến hậu quả khá nghiêm trọng. Rồi khi xây dựng chính sách, dự thảo chính sách được các địa phương đóng góp thường ít được sửa đổi, chủ yếu các bộ, ngành tham mưu, thường không sát với điều kiện sản xuất của từng địa phương, từng vùng, nhưng phải qua thời gian dài mới được sửa đổi dẫn đến hậu quả khó lường./.

 

Hồng Nhung - Hồng Phượng

BÀI CUỐI: ÐỂ NGƯ DÂN KHÔNG ÐƠN ÐỘC

 

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài cuối: Chìa khoá mở rào

Ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo hiện nay được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững trên tất cả các lĩnh vực. Ðối với 2 ngành hàng chủ lực là con tôm và con cua, càng phải đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới, sáng tạo để tạo bước đột phá vượt qua khó khăn, tiến tới phát triển bền vững.

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài 2: Vào chặng đường "địa hình"

Vài năm gần đây, 2 ngành hàng chủ lực của tỉnh đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Ðường đua trên thị trường của tôm, cua Cà Mau đang bước vào chặng “vượt địa hình” do biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả của các quốc gia trong khu vực và quốc tế...

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực

Tôm, cua Cà Mau là 2 ngành hàng chủ lực nâng cao đời sống của đại bộ phận người dân trên địa bàn tỉnh, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của ngành thuỷ sản tỉnh nhà nói riêng, cả nước nói chung. Tuy nhiên, những năm gần đây, 2 mặt hàng này đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, cần có sự thay đổi nhanh, toàn diện để tạo đột phá và phát triển bền vững.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài cuối: Xứng đáng với vai trò, trọng trách

Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, chất lượng hoạt động của HÐND 3 cấp tại Cà Mau đã trở thành quyết tâm, xu thế để đại biểu dân cử, cơ quan dân cử xứng đáng với vai trò, trọng trách được cử tri tin tưởng trao gởi. HÐND các cấp của vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc đang ra sức phụng sự, phấn đấu, cống hiến vì mục tiêu xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 3: Tiếp xúc cử tri “đúng người, đúng việc, đúng vai”

Ông Nguyễn Tiến Hải, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HÐND tỉnh Cà Mau, từng rất trăn trở: “Tiếp xúc cử tri mà cán bộ nhiều hơn dân thì chưa đúng người, đúng việc, đúng vai. Tình trạng này phải chấn chỉnh ngay, phải để tiếp xúc cử tri là nơi thể hiện quyền làm chủ thật sự, thực chất của Nhân dân; để bà con cử tri đóng góp ý kiến, đề đạt tâm tư, nguyện vọng và hiến kế góp phần vào sự ổn định, phát triển chung của địa phương”.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 2: Giám sát có trọng tâm, trọng điểm

Giám sát là hoạt động quan trọng của HÐND các cấp, góp phần xác định vị thế, năng lực hoạt động của đại biểu dân cử, cơ quan dân cử, tạo dựng niềm tin và sự tín nhiệm đối với cử tri. Giám sát có trọng tâm, trọng điểm; đa dạng hình thức giám sát, được đo đếm bằng kết quả thực tế, sự đánh giá của cử tri chính là nỗ lực, mục tiêu mà các cấp HÐND tỉnh Cà Mau đang dồn sức thực hiện.

Hành trình của khát vọng và hành động

HÐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân; thay mặt Nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương bằng việc ban hành các nghị quyết tại các kỳ họp trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc phòng - an ninh và trong phạm vi thẩm quyền theo quy định pháp luật.

“Thắng giặc nghèo” không khó - Bài 2: Linh hoạt với những mô hình hiệu quả

Giai đoạn 2020-2025, Cà Mau có nhiều cách làm chủ động, linh hoạt trong thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững. Nhiều mô hình trồng trọt, chăn nuôi, chuyển đổi nghề hiệu quả, hàng loạt kế hoạch đào tạo lao động tại địa phương đã giúp người dân vượt khó vươn lên, mang tính thực tiễn cao.

“Thắng giặc nghèo” không khó - Bài cuối: Nhìn từ thực tế

Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, đến năm 2022 Trung ương mới bắt đầu phân bổ kế hoạch vốn và ban hành các văn bản hướng dẫn, tổ chức thực hiện. Dù còn gặp nhiều khó khăn về cơ chế, chính sách, các hướng dẫn từ Trung ương chưa đầy đủ, kịp thời nhưng được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HÐND, UBND tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành cấp tỉnh, cùng với sự nỗ lực của địa phương và người dân, các hoạt động thuộc chương trình đã và đang triển khai thực hiện cơ bản đạt mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

“Thắng giặc nghèo” không khó

Với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền, sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, nhất là sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của người dân, các chính sách giảm nghèo được triển khai thực hiện đồng bộ trên địa bàn tỉnh, mang lại kết quả tích cực. Nhiều hộ nghèo, cận nghèo sau khi thoát nghèo có cuộc sống ổn định, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng lên.