Thứ hai, 29-12-25 14:29:08
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng Nam quốc lộ 1A: Những bất cập cần được tháo gỡ

Báo Cà Mau

Năm 2011, tổng giá trị sản xuất của ngành Nông nghiệp Bạc Liêu đạt hơn 11.000 tỷ đồng, chiếm 51% GDP của tỉnh. Trong đó, khai thác và nuôi trồng thủy sản (NTTS) chiếm 70% giá trị. Điều này cho thấy, tiềm năng và thế mạnh kinh tế thủy sản của tỉnh rất lớn và tập trung nhiều ở vùng Nam Quốc lộ (QL) 1A. Tuy nhiên, hệ thống thủy lợi cho NTTS ở khu vực này chưa được đầu tư đúng mức. Và cần làm gì để đạt được mục tiêu diện tích nuôi tôm công nghiệp 15.000ha vào năm 2015 trong điều kiện hạ tầng vùng nuôi bộc lộ rất nhiều bất cập, khiếm khuyết đang trở thành vấn đề đáng bàn.

Bài 1: Tình hình mới, quy hoạch cũ

Hệ thống thủy lợi phục vụ NTTS ở vùng Nam QL1A của tỉnh hiện nay là dành cho trồng trọt được quy hoạch từ thời tỉnh Minh Hải (cũ). Từ khi tái lập tỉnh đến nay, Bạc Liêu chưa có quy hoạch thủy lợi nào được duyệt dành cho con tôm.

Thủy sản cũng cần “nhất nước”

Vùng Nam QL1A bao gồm một phần của huyện Vĩnh Lợi, TP. Bạc Liêu, huyện Hòa Bình, Giá Rai và toàn bộ huyện Đông Hải với tổng diện tích hơn 100.000ha, nằm về hướng biển. Trong đó, đất chuyên NTTS khoảng 63.000ha và đất NTTS kết hợp làm muối, trồng rừng, nuôi tôm quảng canh… hơn 3.200ha. Ở đây còn gọi là “thủ phủ” của mô hình nuôi tôm công nghiệp nhưng đang tồn tại nhiều bất cập về hạ tầng vùng nuôi.

Vụ tôm năm 2012 đã bắt đầu kể từ tháng 3/2012. Không phải chỉ có cây lúa hay rau màu… mà nguồn nước phục vụ NTTS cũng đóng vai trò đặc biệt quan trọng, nó quyết định sự sống còn của con tôm.

Theo cơ quan chuyên môn, nguồn nước cho NTTS (chủ yếu là tôm sú) yêu cầu về chất lượng rất nghiêm ngặt. Đó là nước không bị ô nhiễm, độ đục thấp, hàm lượng ô xy hòa tan trong nước cao, hàm lượng chất hữu cơ trong nước thấp, hàm lượng các chất độc hại trong nước thấp hoặc không có thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu, H2S… Qua các kết quả khảo sát, đo đạc ở vùng Nam QL1A cho thấy, những vùng nuôi tôm tập trung dễ bị ô nhiễm nguồn nước do nước thải từ ao nuôi chưa xử lý đưa ra môi trường chứa hàm lượng chất hữu cơ cao, chứa các mầm bệnh tôm, chất kháng sinh. Hàm lượng vi sinh đo được trong nước còn khá cao, đặc biệt vào giai đoạn mùa khô và đầu mùa mưa trên hệ thống kênh, rạch trong vùng.

Để sử dụng nguồn nước cho NTTS đạt hiệu quả cao và phát triển bền vững, các cơ quan quản lý thủy sản, quản lý thủy lợi cần có các giải pháp quản lý, giải pháp kỹ thuật, giải pháp giáo dục cộng đồng… làm cơ sở để hạn chế sự ô nhiễm nguồn nước trên diện rộng, bảo vệ chất lượng môi trường nước.

Kênh lấy nước cho NTTS thuộc địa bàn xã Vĩnh Thịnh (huyện Hòa Bình) bị bồi lắng nghiêm trọng.

Tôm khỏe, tôm bệnh “tắm chung”

Theo Sở NN&PTNT, năm 2011 là năm buồn nhiều hơn vui của những người sống bằng nghề nuôi tôm sú. Vụ tôm 2011, Bạc Liêu có gần 50% diện tích nuôi tôm sú thất bại, thất thu hàng trăm tỷ đồng. Ông Phạm Hoàng Giang, Chi cục trưởng Chi cục NTTS tỉnh, đánh giá: “Tôm chết là do nhiều nguyên nhân. Nhưng nguyên nhân dẫn đến lây lan, phát tán dịch bệnh là do nguồn nước dưới kênh bị ô nhiễm. Và hậu quả của chuyện tôm khỏe, tôm bệnh “tắm chung” dòng nước làm cho dịch bệnh lây lan rất khó kiểm soát”. Bàn về vấn đề này, ông Giang nói thêm, ở vùng Nam QL1A hiện nay, một con kênh cấp nước, xả nước NTTS xài chung 3 - 4 ấp hoặc 2 - 3 xã là chuyện bình thường. Ngay cả những vùng quy hoạch chuyên canh tôm công nghiệp, bán công nghiệp của tỉnh như: Long Điền Đông (huyện Đông Hải); Vĩnh Thịnh, Vĩnh Hậu (huyện Hòa Bình ) và Vĩnh Trạch Đông (TP. Bạc Liêu) cũng chưa có đường cấp nước và lấy nước riêng. Quy định là khi có dịch bệnh xảy ra, người nuôi tôm phải xử lý triệt để mầm bệnh trước khi thải ra môi trường. Thế nhưng, những vùng nuôi tôm quảng canh hay tôm - lúa chẳng ai quan tâm thực hiện điều này. Và hệ lụy của việc làm thiếu ý thức ấy cộng với những bất cập của hệ thống thủy lợi đã làm cho dịch bệnh lây lan rất nhanh.

Ông Trần Văn Hoàng, ngụ ấp Rạch Thăng, xã Vĩnh Trạch, TP. Bạc Liêu, bức xúc: “Người nuôi tôm chúng tôi rất cần một nguồn nước sạch, không dịch bệnh. Việc xài chung một nguồn nước như những năm qua đã khiến cho người nuôi tôm gặp nhiều khó khăn. Thậm chí, nhiều người đã phải bỏ xứ đi nơi khác làm ăn, chứ cứ nuôi kiểu này thì chết chùm cả đám”.

Theo ông Lai Thanh Ẩn, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh: “Kinh phí tỉnh dành cho thủy lợi, thủy nông nội đồng hàng năm không đáng kể (hơn 100 tỷ đồng cho cả vùng Nam và Bắc của tỉnh). Vì vậy, nó chỉ đủ đầu tư cho việc nạo vét. Và trong khi nạo vét chưa xong một vòng thì ở điểm đầu đã bị bồi lắng như cũ. Cứ thế mà kinh phí đầu tư xây dựng công trình thủy lợi mới không còn, mà chủ yếu dựa vào nguồn vốn tài trợ nước ngoài, vốn trái phiếu Chính phủ và ngân sách Trung ương, nhưng rất hạn chế”.

Điều này cho thấy, mục tiêu về diện tích và sản lượng tôm mà tỉnh mong muốn đang tỷ lệ nghịch với sự đáp ứng về hạ tầng vùng nuôi. Mức độ thâm canh con tôm ngày càng cao, ô nhiễm môi trường gay gắt… là những gì đang diễn ra ở vùng Nam QL1A hiện nay và đẩy nghề nuôi tôm rơi vào một thách thức lớn.

Nạo vét kênh thủy lợi phục vụ NTTS ở vùng Nam QL1A. Ảnh: T.Đ

Bất cập… kéo dài

Theo đánh giá của cơ quan quản lý thủy lợi, nhờ nằm tiếp giáp với biển nên hoạt động NTTS ở vùng Nam QL1A có nhiều thuận lợi. Đó là nguồn nước mặn dồi dào, việc lấy nước và xả nước ra biển rất nhanh. Song, bất lợi do thiên nhiên mang lại cũng không nhỏ: hệ thống kênh, rạch bị phù sa bồi lắng quá nhanh, cứ khoảng 3 năm là phải nạo vét một lần. Nguyên nhân, do 24 cửa sông, kênh, rạch nằm dọc đê biển của tỉnh đều thông trực tiếp ra biển mà không được ngăn bởi hệ thống cống để hạn chế phù sa. Bên cạnh đó, hệ thống thủy nông nội đồng ở vùng này hiện chỉ đạt từ 65 - 70%, chưa đáp ứng yêu cầu cấp - thoát nước, chưa đồng bộ với hệ thống kênh cấp 1, cấp 2. Đáng chú ý là từ trước đến nay, ở “thủ phủ” tôm công nghiệp này chưa bao giờ có một hệ thống kênh riêng biệt để cấp và thoát nước dành cho NTTS.

Mục tiêu của tỉnh đến năm 2015, tổng sản lượng tôm sú thu được từ các hoạt động nuôi trồng khoảng 87.700 tấn. Trong đó, thu hoạch từ mô hình nuôi công nghiệp - bán công nghiệp (CN-BCN) đạt khoảng 52.500 tấn trên diện tích thả nuôi 15.000ha. Tuy nhiên, vụ nuôi năm 2012, diện tích nuôi tôm CN-BCN mà ngành Nông nghiệp phấn đấu chỉ 12.000ha. Nguyên nhân là do hạ tầng vùng nuôi (điện, đường giao thông và thủy lợi) không đảm bảo.

Hệ thống thủy lợi của tỉnh được quy hoạch từ hồi thập niên 90 của thế kỷ trước. Ông Lai Thanh Ẩn, giải thích: “Khi ấy, quy hoạch và thiết kế thủy lợi chỉ tính tới chuyện phục vụ nông nghiệp, chủ yếu là trồng lúa (ngăn mặn, tiêu úng, xổ phèn, giữ ngọt, dẫn ngọt) nên chỉ quan tâm đào các kênh trục (tuyến kênh chính). Do đó, khi chuyển sang NTTS, đặc biệt với mức độ thâm canh ngày càng cao, khiến nó không còn phù hợp với nhu cầu thực tế. Với hệ thống thủy lợi hiện có, rất khó để quản lý tốt được môi trường theo yêu cầu sản xuất”. Theo đánh giá của Sở NN&PTNT, môi trường nước đang có dấu hiệu xấu đi do ý thức cộng đồng chưa cao, nguồn nước thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp (trồng trọt), thủy sản, công nghiệp, dân sinh… thải trực tiếp xuống kênh, rạch quá nhiều. Từ đó, sau 3 năm nuôi tôm công nghiệp - bán công nghiệp, một số diện tích ở khu vực ven biển Đông đã có dấu hiệu “sa mạc hóa”.

Sự không đồng bộ giữa thực tiễn phát sinh với quy hoạch đang trở thành rào cản của người nuôi tôm. Quy hoạch quá cũ và chậm thay đổi, bổ sung khiến cho thủy lợi cũng không thể ngăn chặn hoặc hạn chế được tác động do biến đổi khí hậu.

Tỉnh đang có hàng chục dự án xây mới các công trình thủy lợi đa mục tiêu phục vụ NTTS như: đê, cống, đập, âu thuyền, phát triển hệ thống kênh dẫn nước… nhưng tiến độ triển khai rất chậm, thậm chí, nhiều dự án vẫn còn nằm trên giấy. Với thực trạng này, những khó khăn, bất cập về thủy lợi cho NTTS ở vùng Nam QL1A nói riêng và toàn tỉnh nói chung chưa biết bao giờ mới được tháo gỡ.

Tấn Đạt

Kỳ tới: Khó khăn, bất cập do đâu?

Vĩnh Mỹ hướng đến sản xuất lúa hữu cơ 

Trước yêu cầu đổi mới nông nghiệp theo hướng bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, sản xuất hữu cơ đang trở thành xu thế tất yếu. Tại xã Vĩnh Mỹ, quá trình chuyển đổi này đang được cụ thể hoá bằng những mô hình sản xuất lúa hữu cơ, gắn với vai trò chủ thể của nông dân, sự đồng hành của chính quyền địa phương và doanh nghiệp, nhằm nâng cao giá trị hạt gạo và phát triển nông nghiệp ổn định, lâu dài.

Hào hứng, lan toả khí thế thi đua

Trong không khí phấn khởi, hào hứng và lan tỏa tinh thần thi đua, Ngày hội Nông thôn mới tỉnh Cà Mau năm 2025 do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức, diễn ra ngày 20/12 tại xã Trần Văn Thời, đã thu hút 15 đội với hơn 200 vận động viên, tuyên truyền viên đến từ 15 xã trên địa bàn tỉnh tham gia.

Cà Mau - Điểm hẹn của những hạt gạo ngon

Dự kiến từ ngày 2-6/2/2026, tỉnh Cà Mau lần đầu tiên trở thành điểm hẹn của những “hạt ngọc trời” khi đăng cai tổ chức “Hội thi gạo ngon vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)”. Không chỉ là cuộc tranh tài về chất lượng hạt gạo, sự kiện còn mang ý nghĩa khẳng định vị thế, mở ra chương mới cho ngành lúa gạo vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc.

Ðưa ngành hàng cua “vươn ra biển lớn”

Ngày 5/12, Sở Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) tỉnh Cà Mau ban hành Kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu cua biển phục vụ xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc. Ðây được xem là bước chuyển quan trọng, đưa ngành hàng cua biển của tỉnh mạnh mẽ "vươn ra biển lớn".

Phát triển sản phẩm OCOP từ vai trò hợp tác xã

Những năm gần đây, kinh tế tập thể, nòng cốt là các hợp tác xã (HTX), ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn tỉnh Cà Mau. Việc tham gia Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) giúp nhiều HTX nâng cao giá trị nông sản, đồng thời thúc đẩy đổi mới tổ chức sản xuất, nâng cao năng lực quản trị, xây dựng thương hiệu và mở rộng thị trường, góp phần thiết thực vào quá trình xây dựng nông thôn mới ở địa phương.

Rừng phòng hộ Vĩnh Hậu: Bảo vệ đê biển và sinh kế người dân

Trải dài gần 20 km dọc tuyến biển Ðông, những cánh rừng mắm, đước, cóc, tra xanh bạt ngàn trên địa bàn xã Vĩnh Hậu không chỉ thực hiện tốt chức năng bảo vệ đê biển mà còn trở thành điểm tựa sinh kế quan trọng cho người dân vùng ven biển. Thời gian qua, rừng phòng hộ nơi đây đã phát huy hiệu quả vai trò “lá chắn xanh”, góp phần giảm thiểu tác động của sóng gió, xói lở, đồng thời tạo điều kiện để người dân khai thác, nuôi trồng thuỷ sản dưới tán rừng theo hướng bền vững.

Ngân hàng đồng hành phát triển kinh tế thuỷ sản

Với lợi thế là “thủ phủ con tôm” của cả nước, Cà Mau đang từng bước chuyển dịch ngành thuỷ sản theo hướng sinh thái, bền vững và gia tăng giá trị. Ðồng hành cùng quá trình này, hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh chủ động triển khai nhiều giải pháp tín dụng phù hợp, góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn, tạo động lực để người dân và doanh nghiệp yên tâm đầu tư, phát triển sản xuất.

Nhộn nhịp mùa thu hoạch tôm càng xanh

Những ngày cuối năm 2025, nông dân xã Nguyễn Phích rộn ràng vào mùa thu hoạch tôm càng xanh, bà con ai nấy đều phấn khởi vì vụ tôm đạt năng suất cao, cho lợi nhuận khả quan.

Hợp tác xã kiểu mới - Nền tảng của kinh tế nông thôn kiểu mẫu

Xã Vĩnh Thanh hiện có 26 tổ hợp tác (THT), 9 hợp tác xã (HTX) đã và đang củng cố, nâng chất hoạt động theo hướng liên kết sản xuất, kinh doanh theo chuỗi giá trị. Đây là một trong những địa phương của tỉnh tiên phong ứng dụng công nghệ, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, tạo nền tảng xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, từng bước hiện đại.

Kinh tế xanh nâng giá trị nông sản

Thời gian qua, Cà Mau triển khai đồng bộ nhiều chính sách và giải pháp, góp phần nâng cao vị thế của nông sản trên thị trường quốc tế. Nhiều mặt hàng nông sản của tỉnh đang dần khẳng định uy tín, chất lượng trong xu thế thị trường ngày càng khắt khe về truy xuất nguồn gốc, an toàn thực phẩm và sản xuất theo hướng hiện đại, minh bạch, bền vững.