Thứ năm, 6-11-25 23:03:14
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng Nam quốc lộ 1A: Những bất cập cần được tháo gỡ

Báo Cà Mau

Năm 2011, tổng giá trị sản xuất của ngành Nông nghiệp Bạc Liêu đạt hơn 11.000 tỷ đồng, chiếm 51% GDP của tỉnh. Trong đó, khai thác và nuôi trồng thủy sản (NTTS) chiếm 70% giá trị. Điều này cho thấy, tiềm năng và thế mạnh kinh tế thủy sản của tỉnh rất lớn và tập trung nhiều ở vùng Nam Quốc lộ (QL) 1A. Tuy nhiên, hệ thống thủy lợi cho NTTS ở khu vực này chưa được đầu tư đúng mức. Và cần làm gì để đạt được mục tiêu diện tích nuôi tôm công nghiệp 15.000ha vào năm 2015 trong điều kiện hạ tầng vùng nuôi bộc lộ rất nhiều bất cập, khiếm khuyết đang trở thành vấn đề đáng bàn.

Bài 1: Tình hình mới, quy hoạch cũ

Hệ thống thủy lợi phục vụ NTTS ở vùng Nam QL1A của tỉnh hiện nay là dành cho trồng trọt được quy hoạch từ thời tỉnh Minh Hải (cũ). Từ khi tái lập tỉnh đến nay, Bạc Liêu chưa có quy hoạch thủy lợi nào được duyệt dành cho con tôm.

Thủy sản cũng cần “nhất nước”

Vùng Nam QL1A bao gồm một phần của huyện Vĩnh Lợi, TP. Bạc Liêu, huyện Hòa Bình, Giá Rai và toàn bộ huyện Đông Hải với tổng diện tích hơn 100.000ha, nằm về hướng biển. Trong đó, đất chuyên NTTS khoảng 63.000ha và đất NTTS kết hợp làm muối, trồng rừng, nuôi tôm quảng canh… hơn 3.200ha. Ở đây còn gọi là “thủ phủ” của mô hình nuôi tôm công nghiệp nhưng đang tồn tại nhiều bất cập về hạ tầng vùng nuôi.

Vụ tôm năm 2012 đã bắt đầu kể từ tháng 3/2012. Không phải chỉ có cây lúa hay rau màu… mà nguồn nước phục vụ NTTS cũng đóng vai trò đặc biệt quan trọng, nó quyết định sự sống còn của con tôm.

Theo cơ quan chuyên môn, nguồn nước cho NTTS (chủ yếu là tôm sú) yêu cầu về chất lượng rất nghiêm ngặt. Đó là nước không bị ô nhiễm, độ đục thấp, hàm lượng ô xy hòa tan trong nước cao, hàm lượng chất hữu cơ trong nước thấp, hàm lượng các chất độc hại trong nước thấp hoặc không có thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu, H2S… Qua các kết quả khảo sát, đo đạc ở vùng Nam QL1A cho thấy, những vùng nuôi tôm tập trung dễ bị ô nhiễm nguồn nước do nước thải từ ao nuôi chưa xử lý đưa ra môi trường chứa hàm lượng chất hữu cơ cao, chứa các mầm bệnh tôm, chất kháng sinh. Hàm lượng vi sinh đo được trong nước còn khá cao, đặc biệt vào giai đoạn mùa khô và đầu mùa mưa trên hệ thống kênh, rạch trong vùng.

Để sử dụng nguồn nước cho NTTS đạt hiệu quả cao và phát triển bền vững, các cơ quan quản lý thủy sản, quản lý thủy lợi cần có các giải pháp quản lý, giải pháp kỹ thuật, giải pháp giáo dục cộng đồng… làm cơ sở để hạn chế sự ô nhiễm nguồn nước trên diện rộng, bảo vệ chất lượng môi trường nước.

Kênh lấy nước cho NTTS thuộc địa bàn xã Vĩnh Thịnh (huyện Hòa Bình) bị bồi lắng nghiêm trọng.

Tôm khỏe, tôm bệnh “tắm chung”

Theo Sở NN&PTNT, năm 2011 là năm buồn nhiều hơn vui của những người sống bằng nghề nuôi tôm sú. Vụ tôm 2011, Bạc Liêu có gần 50% diện tích nuôi tôm sú thất bại, thất thu hàng trăm tỷ đồng. Ông Phạm Hoàng Giang, Chi cục trưởng Chi cục NTTS tỉnh, đánh giá: “Tôm chết là do nhiều nguyên nhân. Nhưng nguyên nhân dẫn đến lây lan, phát tán dịch bệnh là do nguồn nước dưới kênh bị ô nhiễm. Và hậu quả của chuyện tôm khỏe, tôm bệnh “tắm chung” dòng nước làm cho dịch bệnh lây lan rất khó kiểm soát”. Bàn về vấn đề này, ông Giang nói thêm, ở vùng Nam QL1A hiện nay, một con kênh cấp nước, xả nước NTTS xài chung 3 - 4 ấp hoặc 2 - 3 xã là chuyện bình thường. Ngay cả những vùng quy hoạch chuyên canh tôm công nghiệp, bán công nghiệp của tỉnh như: Long Điền Đông (huyện Đông Hải); Vĩnh Thịnh, Vĩnh Hậu (huyện Hòa Bình ) và Vĩnh Trạch Đông (TP. Bạc Liêu) cũng chưa có đường cấp nước và lấy nước riêng. Quy định là khi có dịch bệnh xảy ra, người nuôi tôm phải xử lý triệt để mầm bệnh trước khi thải ra môi trường. Thế nhưng, những vùng nuôi tôm quảng canh hay tôm - lúa chẳng ai quan tâm thực hiện điều này. Và hệ lụy của việc làm thiếu ý thức ấy cộng với những bất cập của hệ thống thủy lợi đã làm cho dịch bệnh lây lan rất nhanh.

Ông Trần Văn Hoàng, ngụ ấp Rạch Thăng, xã Vĩnh Trạch, TP. Bạc Liêu, bức xúc: “Người nuôi tôm chúng tôi rất cần một nguồn nước sạch, không dịch bệnh. Việc xài chung một nguồn nước như những năm qua đã khiến cho người nuôi tôm gặp nhiều khó khăn. Thậm chí, nhiều người đã phải bỏ xứ đi nơi khác làm ăn, chứ cứ nuôi kiểu này thì chết chùm cả đám”.

Theo ông Lai Thanh Ẩn, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh: “Kinh phí tỉnh dành cho thủy lợi, thủy nông nội đồng hàng năm không đáng kể (hơn 100 tỷ đồng cho cả vùng Nam và Bắc của tỉnh). Vì vậy, nó chỉ đủ đầu tư cho việc nạo vét. Và trong khi nạo vét chưa xong một vòng thì ở điểm đầu đã bị bồi lắng như cũ. Cứ thế mà kinh phí đầu tư xây dựng công trình thủy lợi mới không còn, mà chủ yếu dựa vào nguồn vốn tài trợ nước ngoài, vốn trái phiếu Chính phủ và ngân sách Trung ương, nhưng rất hạn chế”.

Điều này cho thấy, mục tiêu về diện tích và sản lượng tôm mà tỉnh mong muốn đang tỷ lệ nghịch với sự đáp ứng về hạ tầng vùng nuôi. Mức độ thâm canh con tôm ngày càng cao, ô nhiễm môi trường gay gắt… là những gì đang diễn ra ở vùng Nam QL1A hiện nay và đẩy nghề nuôi tôm rơi vào một thách thức lớn.

Nạo vét kênh thủy lợi phục vụ NTTS ở vùng Nam QL1A. Ảnh: T.Đ

Bất cập… kéo dài

Theo đánh giá của cơ quan quản lý thủy lợi, nhờ nằm tiếp giáp với biển nên hoạt động NTTS ở vùng Nam QL1A có nhiều thuận lợi. Đó là nguồn nước mặn dồi dào, việc lấy nước và xả nước ra biển rất nhanh. Song, bất lợi do thiên nhiên mang lại cũng không nhỏ: hệ thống kênh, rạch bị phù sa bồi lắng quá nhanh, cứ khoảng 3 năm là phải nạo vét một lần. Nguyên nhân, do 24 cửa sông, kênh, rạch nằm dọc đê biển của tỉnh đều thông trực tiếp ra biển mà không được ngăn bởi hệ thống cống để hạn chế phù sa. Bên cạnh đó, hệ thống thủy nông nội đồng ở vùng này hiện chỉ đạt từ 65 - 70%, chưa đáp ứng yêu cầu cấp - thoát nước, chưa đồng bộ với hệ thống kênh cấp 1, cấp 2. Đáng chú ý là từ trước đến nay, ở “thủ phủ” tôm công nghiệp này chưa bao giờ có một hệ thống kênh riêng biệt để cấp và thoát nước dành cho NTTS.

Mục tiêu của tỉnh đến năm 2015, tổng sản lượng tôm sú thu được từ các hoạt động nuôi trồng khoảng 87.700 tấn. Trong đó, thu hoạch từ mô hình nuôi công nghiệp - bán công nghiệp (CN-BCN) đạt khoảng 52.500 tấn trên diện tích thả nuôi 15.000ha. Tuy nhiên, vụ nuôi năm 2012, diện tích nuôi tôm CN-BCN mà ngành Nông nghiệp phấn đấu chỉ 12.000ha. Nguyên nhân là do hạ tầng vùng nuôi (điện, đường giao thông và thủy lợi) không đảm bảo.

Hệ thống thủy lợi của tỉnh được quy hoạch từ hồi thập niên 90 của thế kỷ trước. Ông Lai Thanh Ẩn, giải thích: “Khi ấy, quy hoạch và thiết kế thủy lợi chỉ tính tới chuyện phục vụ nông nghiệp, chủ yếu là trồng lúa (ngăn mặn, tiêu úng, xổ phèn, giữ ngọt, dẫn ngọt) nên chỉ quan tâm đào các kênh trục (tuyến kênh chính). Do đó, khi chuyển sang NTTS, đặc biệt với mức độ thâm canh ngày càng cao, khiến nó không còn phù hợp với nhu cầu thực tế. Với hệ thống thủy lợi hiện có, rất khó để quản lý tốt được môi trường theo yêu cầu sản xuất”. Theo đánh giá của Sở NN&PTNT, môi trường nước đang có dấu hiệu xấu đi do ý thức cộng đồng chưa cao, nguồn nước thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp (trồng trọt), thủy sản, công nghiệp, dân sinh… thải trực tiếp xuống kênh, rạch quá nhiều. Từ đó, sau 3 năm nuôi tôm công nghiệp - bán công nghiệp, một số diện tích ở khu vực ven biển Đông đã có dấu hiệu “sa mạc hóa”.

Sự không đồng bộ giữa thực tiễn phát sinh với quy hoạch đang trở thành rào cản của người nuôi tôm. Quy hoạch quá cũ và chậm thay đổi, bổ sung khiến cho thủy lợi cũng không thể ngăn chặn hoặc hạn chế được tác động do biến đổi khí hậu.

Tỉnh đang có hàng chục dự án xây mới các công trình thủy lợi đa mục tiêu phục vụ NTTS như: đê, cống, đập, âu thuyền, phát triển hệ thống kênh dẫn nước… nhưng tiến độ triển khai rất chậm, thậm chí, nhiều dự án vẫn còn nằm trên giấy. Với thực trạng này, những khó khăn, bất cập về thủy lợi cho NTTS ở vùng Nam QL1A nói riêng và toàn tỉnh nói chung chưa biết bao giờ mới được tháo gỡ.

Tấn Đạt

Kỳ tới: Khó khăn, bất cập do đâu?

Làm nông như ông Võ Thành Quốc

Ở vùng đất rừng tràm Khánh An, có nhiều nông dân cần cù, sáng tạo, biết làm nông theo cách riêng của mình. Trong số đó, ông Võ Thành Quốc (ấp 13) là một tấm gương tiêu biểu, không chỉ làm giàu từ trồng lúa, nuôi tôm mà còn tận dụng bờ vuông, bờ kênh để trồng hoa màu, tạo nguồn thu ổn định quanh năm. Nhờ cách làm hiệu quả, ông trở thành điển hình trong phong trào nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi của địa phương.

Bước tiến dài cho gạo BL9

Cuối năm 2023, giống lúa BL9 của tỉnh Cà Mau được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) công nhận lưu hành đặc cách, Trung tâm Giống nông nghiệp tỉnh phối hợp triển khai sản xuất tại nhiều địa phương trên địa bàn và đạt hiệu quả khá cao. Ðặc biệt, gạo từ giống lúa này được Hợp tác xã (HTX) Thanh Sơn (xã Vĩnh Mỹ) phát triển thành sản phẩm OCOP 3 sao, tạo tiền đề để mở rộng và vươn xa hơn trên thị trường.

Vĩnh Mỹ: Từ vùng đất khó vươn lên xây dựng cuộc sống ấm no

Vĩnh Mỹ từng là xã khó khăn, đời sống của người dân nói chung, đồng bào dân tộc Khmer nói riêng nơi đây gần như phụ thuộc hoàn toàn vào nông nghiệp truyền thống. Việc sản xuất nhỏ lẻ, chủ yếu trông chờ vào thiên nhiên và đầu ra phụ thuộc vào thương lái, nên cái nghèo cứ đeo bám từng nếp nhà. Tuy nhiên, những năm gần đây, nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương và nỗ lực vươn lên của người dân, Vĩnh Mỹ đã đổi thay rõ nét, từng bước chuyển mình hướng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững, xây dựng đời sống người dân ấm no, hạnh phúc.

Hơn 50 doanh nghiệp tập huấn kiến thức về tiêu chuẩn và chứng nhận Halal

Nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Cà Mau tiếp cận và cập nhật những quy định mới nhất về tiêu chuẩn, chứng nhận cũng như an toàn thực phẩm trong hệ thống quản lý chất lượng Halal, ngày 29/10, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức lớp tập huấn kiến thức về tiêu chuẩn và chứng nhận Halal dành cho các doanh nghiệp, hợp tác xã và cơ sở sản xuất kinh doanh trong tỉnh.

Làm giàu từ nông nghiệp hiện đại

Thực hiện chủ trương phát triển nông nghiệp bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, tỉnh Cà Mau khuyến khích người dân mạnh dạn chuyển đổi mô hình sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - kỹ thuật và công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng nông sản. Nhiều mô hình hiệu quả được triển khai, không chỉ mang lại thu nhập cao mà còn góp phần thay đổi tư duy sản xuất, hướng tới nền nông nghiệp thông minh, hiện đại và thân thiện với môi trường.

Kiến nghị tháo gỡ vướng mắc về thuế giá trị gia tăng

“Trong khi chờ quy định mới, các cơ quan thuế cần vừa thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách, vừa hỗ trợ, hướng dẫn doanh nghiệp giảm bớt khó khăn; ngành ngân hàng linh hoạt trong tín dụng để tháo gỡ vốn cho doanh nghiệp. Đồng thời, các sở, ngành liên quan cần tiếp tục quan tâm xử lý các vấn đề về chiếu xạ, tạp chất và chất lượng sản phẩm, góp phần thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản của tỉnh”.

Cà Mau thúc đẩy hợp tác quốc tế phát triển ngành cua biển

Trong khuôn khổ Hội thảo quốc tế về Ứng dụng hệ gen trong nông nghiệp (International Symposium on Applied Genomics in Agriculture) diễn ra từ ngày 27-29/10/2025 tại Trường Đại học VinUni (Hà Nội), Đoàn công tác của Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tỉnh Cà Mau, do ông Quách Văn Ấn, Phó Giám đốc Sở làm Trưởng đoàn, đã tham dự và triển khai nhiều hoạt động quan trọng nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế trong phát triển ngành cua biển Cà Mau.

Tăng thu nhập từ nghề tay trái

Lục bình (hay còn gọi là bèo tây) là loài cây mọc nổi, sinh sôi nhanh trên sông, kênh, rạch vùng ngọt hoá Cà Mau và không mang lại giá trị kinh tế cao. Nhưng vài năm gần đây, loại cây dại này đã trở thành nguồn nguyên liệu chính tạo ra những sản phẩm thủ công mỹ nghệ đẹp mắt, nâng tầm giá trị và mang lại thu nhập đáng kể.

Sẵn sàng Ngày hội Cua Cà Mau

Sau thành công của Ngày hội Cua Cà Mau lần thứ I năm 2022, tỉnh Cà Mau hiện đang khẩn trương chuẩn bị tổ chức Ngày hội Cua Cà Mau lần thứ II năm 2025. Sự kiện không chỉ là dịp tôn vinh sản vật đặc trưng của địa phương mà còn thể hiện khát vọng đưa con cua Cà Mau vươn tầm thương hiệu quốc gia, khẳng định vị thế sản vật chủ lực của vùng đất cực Nam Tổ quốc.

Mắm cá lóc đồng U Minh vào OCOP

Từ lâu, vùng đất U Minh nổi tiếng với những cánh rừng tràm bạt ngàn và từ đó cũng cho ra mật ong rừng tràm trứ danh. Cùng với đó là nguồn nguyên liệu cá đồng phong phú không chỉ làm ra nhiều món ngon mà còn là lưu giữ nghề làm mắm cá lóc đồng truyền thống.