Cứ đến tháng Năm, dì Út có một khoảng lặng để nhớ về vườn dừa quê cũ, nhớ tiếng mandoline bay bổng giữa đêm trăng, nhớ tiếng gọi “Út ơi” trước lúc lên đường của đoàn chiến sĩ…
Cứ đến tháng Năm, dì Út có một khoảng lặng để nhớ về vườn dừa quê cũ, nhớ tiếng mandoline bay bổng giữa đêm trăng, nhớ tiếng gọi “Út ơi” trước lúc lên đường của đoàn chiến sĩ…
Trong những câu chuyện mà dì Út kể cho tôi nghe, tôi ấn tượng nhất về bài thơ chép tay của một chú bộ đội gởi cho dì trước khi vào trận đánh. Mấy mươi năm rồi nhưng khoảnh khắc đó đối với dì Út không thể phai mờ.
Cách đây hơn 40 năm, dì Út tuổi vừa đôi tám, là đội viên ca múa trong đoàn văn công của xã. Quê ngoại tôi ở vùng giải phóng, có vườn dừa xanh ngát bên con kinh uốn quanh, đồng thời cũng là đường giao thông của Nhân dân các địa phương liền kề, đường hành quân của bộ đội.
Tháng Năm năm đó chuẩn bị vào chiến dịch nên một đơn vị chủ lực dừng quân ở vườn dừa nhà ngoại để chuẩn bị, củng cố lực lượng và triển khai chỉ thị của cấp trên. Chú bộ đội có dáng người cao cao, đôi mắt như biết nói, chú đàn mandoline rất hay, tối tối mấy chú vào nhà ngoại, ngoại nấu cháo gà đãi “các con”, dì Út phụ ngoại trong bếp nhưng cũng để mắt đến chú bộ đội có đôi mắt dễ gần, đàn rất hay, khi chú đặt tay lên phím thì đàn sẽ bật lên giai điệu tươi vui, thanh thoát. Dù không tỏ rõ tình cảm của mình nhưng chú ấy đã cảm nhận được qua cái nhìn bẽn lẽn của cô gái có giọng hát cao vút, ngọt ngào mà chú tình cờ nghe được. Ðó là lý do chú và mấy anh em trong đơn vị vác đàn vô nhà ngoại mấy buổi tối nay.
Ðêm nay đội văn nghệ của xã tập trung về nhà ngoại tổ chức liên hoan để tiễn đưa anh em ra mặt trận, không khí thật thân tình, đầm ấm. Tiếng đàn mandoline của chú vang lên, nâng bổng lời ca của dì Út với bài “Bác đang cùng chúng cháu hành quân”. Những tràng vỗ tay sôi nổi, nhiều tiết mục nối tiếp nhau làm cho đêm liên hoan thật vui và cảm động bởi tình quân, dân thắm thiết.
Sáng, nhà ngoại dậy sớm để chuẩn bị thức ăn cho anh em, dì Út có vẻ bồn chồn, mắt luôn hướng về phía vườn dừa sau nhà. Hàng chục chiếc xuồng ba lá quay mũi về phía con sông ngoài đầu rạch.
-Út ơi!
Dì Út bước ra hè, chú bộ đội đã bỏ hành lý xuống xuồng, nấn ná đôi phút để trao cho dì một tờ giấy ca rô xếp làm tư rồi bước xuống xuồng chèo theo đoàn hành quân...
Tờ giấy giờ đã ngả màu vàng, mực cũng lem ố nhưng bài thơ vẫn nguyên vẹn. Dì Út kể, dì thích bài thơ "Quê hương" của Nhà thơ Giang Nam nhưng không thuộc, chú bộ đội đã chép và đề tặng dì “Tặng Út bài thơ để Út sẽ nhớ về anh mãi mãi”.
Thế rồi chú ấy không bao giờ trở lại, dì Út cũng từ chối nhiều mối đến dạm hỏi mặc cho ngoại cứ thúc ép, ông bà mong con cái yên bề gia thất để yên lòng. Ngày tháng trôi qua, dì vẫn đợi chờ. Khi đất nước hoà bình, dì chuyển ra thành phố nhưng bóng người cao cao, đôi mắt tinh anh với tiếng đàn thanh thoát ấy đã biền biệt nơi đâu.
Dì sống cô đơn hơn nửa đời người, có lẽ bài thơ mà người viết nắn nót từng nét chữ đã khắc vào trái tim cô gái trẻ quá sâu đậm dù trải qua tháng năm đằng đẵng vẫn không thể nhạt nhoà./.
Lê Ngọc